15/12/22

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ VỚI NGA

 

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ VỚI NGA

1. Thế giới đương đại và chính sách đối ngoại của Liên bang Nga

Thế giới đương đại đang trải qua thời kỳ thay đổi sâu sắc, thực chất là sự hình thành hệ thống quốc tế đa trung tâm. Cấu trúc của các mối quan hệ quốc tế tiếp tục trở nên phức tạp hơn. Kết quả của quá trình toàn cầu hóa là hình thành các trung tâm quyền lực kinh tế và chính trị mới. Sự phân tán tiềm lực và phát triển của thế giới đang diễn ra, chuyển dịch nó vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Khả năng khống chế kinh tế và chính trị thế giới của phương Tây lịch sử bị cắt giảm. Sự đa dạng các nền văn hóa và văn minh thế giới, nhiều mô hình phát triển nhà nước đang được thể hiện rõ ràng.

Những mâu thuẫn trầm trọng liên quan đến sự phát triển thế giới không đồng đều, khoét sâu khoảng cách giữa mức phúc lợi của các quốc gia, tăng tính cạnh tranh giành nguồn lực, tiếp cận thị trường, kiểm soát các tuyến đường vận chuyển huyết mạch. Cạnh tranh không chỉ bao gồm tiềm lực con người, khoa học và công nghệ, mà ngày càng có tính văn minh, hình thức tranh đua các định có giá trị.

Trong điều kiện như vậy, mưu toan áp đặt cho các quốc gia khác thang bậc giá trị của mình, đầy sự bài ngoại, không bao dung và xung đột trong các vấn đề quốc tế, và cuối cùng có thể dẫn đến hỗn loạn và không quản lý được trong các mối quan hệ quốc tế. Ngăn ngừa các rạn nứt giữa các nền văn minh, hình thành mối quan hệ đối tác giữa các nền văn hóa, tôn giáo và văn minh nhằm bảo đảm phát triển hài hòa của nhân loại được xếp vào hạng các nhiệm vụ ưu tiên. Tham vọng của các quốc gia phương Tây duy trì vị thế của mình, trong đó áp đặt quan điểm của họ về quá trình toàn cầu và tiến hành chính sách kiềm chế các trung tâm thế lực khác, làm gia tăng bất ổn trong quan hệ quốc tế, hỗn loạn ở cấp độ toàn cầu và khu vực. Đấu tranh giành ưu thế trong việc hình thành các nguyên tắc then chốt trong việc tổ chức hệ thống quốc tế tương lai đang trở thành xu hướng chính của giai đoạn phát triển hiện nay trên thế giới.

Trong hoàn cảnh những mâu thuẫn chính trị, xã hội, kinh tế trầm trọng và gia tăng bất ổn trong hệ thống chính trị và kinh tế thế giới, vai trò của yếu tố quyền lực trong các mối quan hệ quốc tế được nâng cao. Việc tăng cường và hiện đại hóa tiềm lực, chế tạo và triển khai các loại vũ khí mới làm suy yếu sự ổn định chiến lược và đe dọa an ninh toàn cầu được bảo trợ bởi hệ thống các hiệp ước và thỏa thuận trong lĩnh vực kiểm soát vũ khí. Mặc dù tính chất nguy hiểm nổ ra chiến tranh quy mô lớn, trong đó chiến tranh hạt nhân giữa các quốc gia hàng đầu là không cao, nhưng nguy cơ lôi cuốn họ vào các cuộc xung đột và leo thang khủng hoảng khu vực tăng lên.

Các liên minh quân sự-chính trị hiện hữu không có khả năng chống lại tất cả các thách thức và đe dọa hiện đại. Trong điều kiện phụ thuộc tương hỗ giữa tất cả các dân tộc và quốc gia tăng lên, các nỗ lực đảm bảo ổn định và an ninh trên lãnh thổ riêng của mình là không có triển vọng. Vấn đề đặc biệt cấp thiết là tuân thủ nguyên tắc tổng hợp an ninh công bằng và toàn vẹn thích hợp với khu vực châu Âu-Đại Tây dương, Âu Á, châu Á-Thái Bình Dương và các khu vực khác. Công tác ngoại giao mạng đòi hỏi có các hình thức tham gia linh hoạt vào các cấu trúc đa phương nhằm tìm kiếm các giải pháp hiệu quả cho nhiệm vụ chung.

Đối với Hoa Kỳ

Liên bang Nga quan tâm tạo dựng các mối quan hệ cùng có lợi với Hoa Kỳ, tính đến trách nhiệm đặc biệt của cả hai quốc gia đối với ổn định chiến lược toàn cầu và tình trạng an ninh quốc tế nói chung, cũng như hiện hữu tiềm năng đáng kể hợp tác thương mại - đầu tư, khoa học - kỹ thuật và hợp tác khác. Nga xuất phát từ thực tế là, phát triển đối thoại liên tục và có thể dự đoán với Hoa Kỳ về các vấn đề quan hệ song phương, cũng như các vấn đề có tầm quan trọng trên thế giới chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng các lợi ích của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nga không công nhận việc Hoa kỳ thực hiện ngoài lãnh thổ quyền tài phán của mình, bỏ qua pháp luật quốc tế, không chấp nhận mưu đồ gây áp lực quân sự, chính trị, kinh tế hoặc các áp lực khác, và dành cho mình quyền đáp trả cứng rắn những hành động thù địch, trong đó bằng cách tăng cường quốc phòng và áp dụng các biện pháp nhân bản hoặc đối xứng.

Nga ủng hộ hợp tác mang tính xây dựng với Hoa Kỳ trong lĩnh vực kiểm soát vũ khí với tính toán nhất thiết về sự tương quan bền vững giữa vũ khí tấn công chiến lược và phòng thủ, nhất thiết làm tăng quá trình giải trừ vũ khí hạt nhân mang tính đa phương. Liên bang Nga xuất phát từ thực tế là, các cuộc đàm phán về cắt giảm tiếp theo vũ khí tấn công chiến lược là có khả năng, chỉ sau khi tính đến tất cả các yếu tố không có ngoại lệ, ảnh hưởng đến sự ổn định chiến lược toàn cầu. Nga coi việc thành lập hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu của Hoa Kỳ là mối đe dọa an ninh quốc gia Nga và có quyền áp dụng các biện pháp đáp trả tương xứng.

Nga hy vọng rằng, Hoa Kỳ trong hành động của mình trên trường quốc tế sẽ tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực luật pháp quốc tế, trước hết là, đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.

Liên bang Nga cởi mở để tạo dựng các mối quan hệ với Canada trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau và kinh nghiệm hợp tác đã tích lũy được, bao gồm cả ở Bắc Cực.

Nga theo đuổi chính sách duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác quốc tế mang tính xây dựng ở Bắc Cực. Liên bang Nga thấy có đủ cơ sở pháp lý quốc tế hiện hành để giải quyết thành công bằng con đường thương lượng tất cả các vấn đề phát sinh trong khu vực, bao gồm cả việc thiết lập ranh giới bên ngoài thềm lục địa ở Bắc Băng Dương. Nga cho rằng, các quốc gia Bắc Cực chịu trách nhiệm đặc biệt về sự phát triển bền vững của khu vực, và do đó ủng hộ tăng cường hợp tác ở các định dạng của Hội đồng Bắc Cực, "G 5" ven biển Bắc Cực, cũng như của Hội đồng khu vực Barents/châu Âu – Bắc Cực. Nga sẽ phản đối mạnh mẽ bất kỳ các mưu toan nào đưa vào Bắc cực các yếu tố đối đầu chính trị và đối đầu quân sự, chính trị hóa sự tương tác quốc tế trong khu vực nói chung. Ý nghĩa cơ bản phát triển khu vực là sử dụng đường biển Bắc như đường giao thông vận tải quốc gia của Nga ở Bắc Cực, cũng như sử dụng nó để vận chuyển quá cảnh giữa châu Âu và châu Á.

Liên bang Nga sẽ tiếp tục duy trì và mở rộng sự hiện diện của mình ở Nam Cực, trong đó, trên cơ sở sử dụng hữu hiệu các cơ chế, thủ tục được quy định bởi hệ thống Hiệp ước về Nam Cực ngày 1 tháng 12 năm 1959.

Từ năm 1991 đến 2012, quan hệ Mỹ - Nga phát triển khá gập ghềnh thăng trầm qua nhiều giai đoạn. Việc phân chia các giai đoạn chỉ mang tính tương đối và không nhất thiết tuân theo chu kỳ 5 hay 10 năm mà căn cứ và "thời tiết" chính tự - an ninh giữa hai cường quốc.

GIAI ĐOẠN 1991 - 1999 - THỜI KỲ B.ENXIN

B. Enxin nhậm chức Tổng thống Liên bang Nga ngày 10/7/1991, đến trưa ngày 31/12/1999  tuyên bố từ chức và chuyển giao quyền lực cho người kế nhiệm trước khi hết nhiệm kỳ II gần 6 tháng.

B. Enxin trở thành Tổng thống Liên bang Nga trong tâm trạng bất mãn và bất bình cao độ với Bộ Chính Trị BCH Trung ương ĐCS Liên Xô do Goócbachốp chi phối thậm chí ông ta căm thù họ. Về tư tưởng và chính trị B.Enxin đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa Mác - Lê nin. Ông ta phủ định sạch trơn những thành tựu to lớn trong hơn 70 năm CNXH, thậm chí còn làm mọi cách xóa bỏ tận gốc rễ của CNXH về cơ cấu chính trị, cơ cấu kinh tế và các mối quan hệ xã hội trên quan điểm CNXH. Với B.Enxin, triết gia A.Karr đã nói đúng: “Trong tất cả mọi kẻ thù, kẻ nguy hiếm nhất là người bạn của ta” .

Việc đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác - Lê nin và phá tan mọi thành tựu của CNXH mà gần ba trăm triệu người Nga và các dân tộc trong cộng đồng Xô Viết tạo dựng nên trong hơn 70 năm, Enxin muốn gián tiếp gửi thông điệp tới Hoa Kỳ và Tây Âu là nước Nga sẽ đi theo Phương Tây, hội nhập với Phương Tây cả chính trị, kinh tế và xã hội, qua đó cầu xin Mỹ và Tây Âu mở hầu bao cứu nước Nga đang cận kề bờ vực. Nhưng giới tinh hoa Mỹ và Phương Tây đâu có dễ tin Enxin - một kẻ đã phản bội lại bạn bè của mình, đã xuyên tạc và bôi nhọ lịch sử của dân tộc mình.

Tại Oasinhtơn và thủ đô các nước Tây Âu người ta vui vẻ đón Enxin và cho Enxin đi tàu bay giấy lên tận mây xanh với việc gán  Enxin nhãn C. Mác vị cứu tinh của nền dân chủ Nga. Nhưng Mỹ và Tây Âu không mở hầu bao cho Enxin, họ chỉ hứa nhiều còn cho Enxin (về tài chính, công nghệ, đầu tư…) rất nhỏ giọt, chỉ đủ cho Enxin tồn tại  với tư cách là ông chủ diện Kremli.

Báo "Độc lập (Nga) ngày 20/6/1998  đã có bài bình luận có giá trị như bản tổng kết quan hệ Mỹ - Nga dưới thời Enxin: "Mỹ không những không giúp Nga mà còn nhấn Nga sâu hơn vào vũng bùn bằng chính sách địa chính trị thô thiển của mình) và  người Mỹ hiểu rất rõ Nga không còn gì đáng giá ngoài ngành dầu khí và họ làm tất cả để phá hoại chỗ dựa kinh tế cuối cùng của Nga”.

“TUẦN TRĂNG MẬT”  NGẮN NGỦI 2000 - 2002

Từ đầu năm 2000, V.Putin trở thành Tổng thống Nga. Oasinhtơn tiếp nhận sự kiện này một cách miễn cưỡng. Đến trước sự kiện 11/9/2001, quan hệ Mỹ - Nga trong trạng thái thăm dò dè chừng đối với nhau.

Sau sự kiện 11/9/2001,ở Niu Yoóc, Tổng thống V.Putin là nguyên thủ đầu tiên có điện chia buồn đến tổng thống Bush (con) và hứa Nga sẽ hợp tác với Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố. Điều đó đã góp phần đưa quan hệ Mỹ - Nga từ tro tàn lạnh giá đến gần gũi ấm cúng hơn.

Đáp lại việc Nga ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, Oasinhtơn đã có thái độ ôn hòa và hợp tác hơn với Nga thể hiện qua các sự kiện và việc làm: 1) Tỏ ra hiểu biết và thông cảm với Nga trong vấn đề Trechnia, 2) Công nhận Nga có nền kinh tế thị trường và ủng hộ Nga gia nhập WTO; 3) Đồng ý Nga làm Chủ tịch G8; 4) Đồng ý Nga có vị trí bình đẳng hơn trong việc thảo luận các vấn đề Châu Âu với NATO; 5) Giảm chỉ trích Nga trong các vấn để nội bộ (dân chủ nhân quyền…)

Trong ba năm từ 2000 đến 2002, quan hệ Mỹ - Nga như những ngày nắng ấm hiếm hoi giữa mùa đông lạnh giá.

“Quan hệ Mỹ - Nga luôn mang tính chất chính trị quân sự…, giống như xe trên núi, lúc lên lúc xuống, mà thực chất là không ngừng đếm số lượng đầu đạn hạt nhân của nhau một cách vô ích”.

IV. MỸ - NGA “ĂN MIẾNG TRẢ MIẾNG”- 2003 - 2008

Mọi việc bắt đầu từ cuộc chiến tranh Mỹ xâm lược Irắc để loại bỏ chính quyền S. Shussein vào tháng 3/2003. Oasinhtơn phân bua với  thế giới về lý do họ phát động chiến tranh xâm lược Irắc là: 1) Chính quyền S.Hussein sở  hữu vũ khí giết người hàng loạt (vũ khí hóa học vũ khí sinh học). 2) Chính quyền S.Hussein có quan hệ chặt chẽ với tổ chức khủng bố quốc tế AlQeada. 3) Chính quyền S.Husein là chính quyền ‘độc tài”.

Thực tế chính quyền S.Hussein không sở hữu vũ khí giết người hàng loạt và không có quan hệ với Al Qeada. Cuộc chiến tranh xâm lược Irắc là cuộc chiến phi nghĩa, là vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc, vi phạm thô bạo các nguyên tắc sơ đẳng trong quan hệ quốc tế và tạo ra một tiền lệ trên chính trường thế giới. Nga và các đồng minh truyền thống của Mỹ ở Tây Âu như Pháp, Đức phản đối mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Irắc. Ba tháng sau tháng 3 năm 2003 hàng trăm triệu người trên các châu lục đã xuống đường biểu tình phản đối Mỹ.            Oasinhtơn cho rằng điện Kremli có vai trò lớn trong việc tập hợp lực lượng, kể cả việc liên hệ với Paris và Berlin, chống Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Irắc.

Để trả thù Nga, Mỹ đã phản công lại bằng  nhiều hoạt động chống Nga:

1) Tiến hành các cuộc "Cách mạng màu" ở sân sau của Nga: cách mạng hoa Hồng ở Grudia năm 2003, Cách mạng Cam ở Ucraina năm 2004, cách mạng hoa Tuylip ở Cưrơgưxtan năm 2005;

2) Kết nạp các nước Đông Âu và Ban Tích vào NATO;

3) Lôi kéo các nước Trung Á, sân sau của Nga xa rời Nga, ngả theo Mỹ và Phương Tây;

4) Xây dựng lá chắn tên lửa ở Ba Lan và hệ  thống ra da cảnh báo sớm ở Cộng hòa Séc;

5) Ráo riết can thiệp vào công việc nội bộ của Nga xuyên tạc và vu cáo Nga vi phạm dân chủ, nhân quyền...

V. Putin đã khôi phục lại nước Nga từ đống đổ nát do Enxin để lại, và Nga đã có khả năng đáp trả mạnh mẽ các đòn xấu chơi của Mỹ.

Tháng 7/2008 Nga quyết định triển khai tổ hợp tên lửa chiến thuật Iscander tầm bắn 600 km ở Belarút và Kaleningrat có khả năng vô hiệu hóa NMD của Mỹ ở Ba Lan và Cộng hòa Séc. Đồng thời, Nga đưa tổ hợp tên lửa "Topol - M” cơ động đặt dưới tầng hầm vào chế độ trực chiến. Tên lửa "Topol - M có hai  điểm ưa việt: 1) Tốc độ xuất phát cao và 2) Thời gian lấy đà tăng tốc ngắn.

Ngày 8/8/2008 Grudia tấn công Alkhadia. Nga phản công lại Grudia trong cuộc chiến 5 ngày (8 - 12/8/2008) và sau đó công nhận nền độc lập của Alkhadia và Nam Oxechia.

Ngày 28/8/2008,Nga thử tên lửa "Topol-M-RS-12M”  có khả năng xuyên thủng mọi hệ thống phòng thủ tên lửa.

Ngày 12/10/2008 Nga thử 3 tên lửa đạn đạo RSM - 54 - Sineva' mang 10 đần đạn hạt nhân với tầm bắn 11.000 km từ tàu sân bay Admiral Kuznetsov.

Ngày 22/9/2008, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga Igor Luckin Frolov tuyên bố: “ chúng tôi sẽ tăng cường hiện diện tại Mỹ Latinh”.

Tháng 11/2008, Nga phối hợp với Vênê-xuêla tập trận hải quân tại sân sau của Mỹ.

Năm cuối cùng trong nhiệm kỳ II của Bush (2008) quan hệ Mỹ-Nga rơi xuống mức thấp nhất kể từ năm 1991.

QUAN HỆ MỸ-NGA TRONG NHIỆM KỲ I (2009 - 2012) CỦA TỔNG THỐNG B. OBAMA

Trong 4 năm nhiệm kỳ I của Tổng thống B.Obama, quan hệ Mỹ - Nga cũng đầy thăng trầm với hai năm đầu (2009 - 2010) như mùa xuân ấm áp thì hai năm cuối (2011 - 2012) lại rơi vào mùa đông lạnh giá.

Do sai lầm cả trong chính sách đội nội và chính sách đối ngoại, sau 8 năm cầm quyền Bush đã bàn giao cho Obama một nước Mỹ suy yếu trên tất cả các lĩnh vực: nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nặng nề nhất kể từ sau cuộc Đại suy thoái 1929 - l933; chính trị nội bộ chia rẽ sâu sắc; đời sống đại đa số người dân khó khăn, xã hội phân tâm; vai trò vị thế của Mỹ trên thế giới suy giảm nghiêm trọng; hơn một tỷ người Hồi giáo trên thế  giới coi Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất; các đồng minh bạn bè truyền thống, nhất là các nước Tây Âu, Mỹ la tinh, Trung Đông, Nam Á, thiếu lòng tin đối với Oasinhtơn; Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ thách thức vai trò và lợi ích của Mỹ tại nhiều khu vực chiến lược quan trọng.

Trong bối cảnh đó, Tổng thống B.Obama đã tỉnh táo nhận ra rằng: không thể để quan hệ Mỹ - Nga tiếp tục suy giảm hơn nữa mà phải khôi phục, phát triển mỗi quan hệ này

Mặt khác, Nga cũng không hề có lợi thậm chí có thể gặp thách thức, thua thiệt lớn khi quan hệ Mỹ - Nga tụt dốc. Vì lợi ích của Nga, bộ đôi Medvedev - Putin đã chủ động phát tín hiệu sẵn sàng hợp tác với Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế và khu vực.

Cuối tháng 11/2008 Tổng thống D.Medvedev là một trong những nguyên thủ đầu tiên gửi điện chúc mừng B.Obama trúng cử Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ và nhắn gửi Oasinhtơn là điện Kremli sẵn sàng hợp tác với Mỹ về mọi vấn đề mà hai bên quan tâm.

Đầu tháng 2/2009, người phát ngôn Nhà Trắng tuyên bố sẽ xem xét việc trì hoãn thời gian triển khai hệ thống lá chắn tên lửa ở Đông Âu. Ngay sau đó, Nga tuyên bố hoãn triển khai hệ thống tên lửa hiện đại Iscander ở Kaleningrat và Belarut.

Giữa tháng 2/2008, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ W.Berns phát tín hiệu là chưa kết nạp Ucraina vào NATO ngay, mà cần chuẩn bị thêm.

Giữa tháng 2/2009, tại hội nghị An ninh ở Murich (Đức), Phó Tổng thống Mỹ J.Biden phát tín hiệu đầy thiện chí: Mỹ cần hợp tác với Nga và Mỹ phản đối mối lợi mà NATO thu được từ thiệt hại của Nga.

Ngày 5/3/2009, dưới áp lực của Mỹ, tại cuộc họp cấp ngoại trưởng của NATO ở Brúc xen, NATO quyết định mời Nga trở lại đối thoại với NATO.

Ngày 6/3/2009, Ngoại trưởng Mỹ H.Clitơn trao cho Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrob món quà có ý nghĩa đặc biệt: vật bấm nút “bắt đầu lại”. Sự kiện này báo hiệu một trang mới trong mối quan hệ Mỹ - Nga và được dư luận quốc tế quan tâm.

Tại hội nghị G20 tại Luân Đôn (Anh) vào tháng 4/2009, Tổng thống B.Obama cho rằng: Không thể xây dựng lá chẵn tên lửa ở Đông Âu mà không thảo luận vớí Nga và NATO đã đi quá nhanh trong việc mời Ucraina và Grudia vào NATO. Tại hội nghị này Obama và Medvedev đã thảo luận mở lại vòng đàm phán giải trừ quân bị và khởi động xây dựng hiệp ước Chiến lược START-II (STAR – I ký năm 1991 đến 5/12/2009 hết hiệu lực).

Đáp lại thiện chí của Mỹ, Nga cho Mỹ và NATO sử dụng đường bộ qua Nga để chuyên chở vũ khí, hậu cần cho cuộc chiến tranh chống khủng bố ở Apganixtan.

Ngày 8/4/2010 tại Praha (Cộng hoà Séc) Tổng thống Nga D.Medvedev và Tổng thống Mỹ B.Obama ký Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược giai đoạn II (START - II).

Việc ký hiệp ước START - II không phải là mọi thắc mắc trong quan hệ Mỹ - Nga đã được giải quyết, nhưng ít ra cũng là một bước tiến ấm lên mối quan hệ giữa hai cường quốc hạt nhân lớn nhất thế giới này. Đáng tiếc là ngọn lửa ấm vừa được nhen nhóm trong quan hệ Mỹ - Nga trong năm 2009-2010 lại nhanh chóng tắt lịm trong 2 năm cuối nhiệm kỳ I của B.Obama: 2011-2012

Từ năm 2011, đặc biệt là năm 2012 và tháng 1/2013 (Trước khi B.Obama nhậm chức nhiệm kỳ II) quan hệ Mỹ - Nga lại căng thẳng đến mức mà nhiều người cho rằng bắt đầu cuộc ciến tranh lạnh mới.

Vấn đề nhức nhối trong quan hệ Mỹ - Nga  làm Mátxcơva bất bình đối với Oasinhtơn là Nhà Trắng thường xuyên dùng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Nga. Điển hình là việc Mỹ sử dụng cơ quan Phát triển Quốc tế (USAID) một tổ chức phi chính phủ của Mỹ hoạt động ở Nga từ năm 1992, để hỗ trợ các lực lượng đối lập ở Nga tổ chức các hoạt động chống Putin - Medveder. Trong các công trình được công bố ở Mỹ và Canada, nhà báo Canada Mark Mackinnon và nhà báo Mỹ chuyên viết phóng sự điều tra Wayne Malsen, cựu nhân viên cơ quan an ninh Quốc gia Mỹ (NSA) đã vạch rõ: Tại cuộc bầu cử Duma Quốc gia Nga ngày 4/12/2011, các tổ chức đối lập ở Nga đã được USAID và tỷ phú Soros cấp toàn bộ tài chính để tổ chức các hoạt động chống Putin - Medvedev và làm sai lệch kết quả cuộc bầu cử (Đảng nước Nga thống nhất của Putin - Medvedev thất bại trong cuộc bầu cử này)

Trong một tuyên bố chính thức, Bộ Ngoại giao Nga tố cáo USAID can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Nga và cố tình gây ảnh hưởng đến kết quả bầu của (4/12/2011) bằng cách cung cấp tài chính cho các lực lượng đối lập. Bản tuyên bố của Bộ Ngoại giao Nga khẳng định, Nga không cần các khoản viện trợ nước ngoài và không cần USAID giảng về xã hội dân sự cho Nga.

Và cái gì đến sẽ đến, từ 1/10/2012 Nga yêu cầu cơ quan Phát triển quốc tế của Mỹ (USAID) phải đóng cửa và rời khỏi Nga1).

Do tình hình chiến lược quốc tế phức tạp, cạnh tranh địa chính trị giữa Nga và Mỹ tạm thời hoà dịu, sự hợp tác trong vấn đề như Apganixtan lại tạo cơ hội nâng cao quan hệ Mỹ - Nga  trong thời gian nhất định.

Không dừng lại ở đó, cuộc chiến ngoại giao giữa Mỹ - Nga tiếp tục leo thang theo kiểu “ăn miếng trả miếng”.

Trung tuần tháng 11/2012, Hạ viện và Thượng viện Mỹ đã thông qua (với tỷ lệ áp đảo) Dư luật Magnisky nhằm mục đích chống Nga2)

Điện Kremli bình tĩnh đáp trả Dư luật Magnisky bằng việc ngày 26/12/2012 tất cả 143 Thượng nghị sỹ thuộc Thượng viện Nga đã bỏ phiếu thông qua Dự luật cấm các gia đình Mỹ nhận con nuôi Nga – Dự luật Dima Yakovlev3) và được tổng thống V.Putin ký ban hành ngày sau đó. Cùng với Đạo luật cấm công dân Mỹ nhận con nuôi Nga, Duma quốc gia (Hạ viện) Nga còn thông qua hai đạo luật khác: Cấm những tổ chức phi thương mại (như USAID) nước ngoài hoạt động chính trị ở Nga và cấm những người nước ngoài vi phạm các quyền của người Nga nhập cảnh Liên bang Nga. Các đạo luật này có hiệu lực từ 1/1/2013.

Mặc dù vấn đề dân chủ, nhân quyền luôn gây nhức nhối trong quan hệ Mỹ - Nga nhưng dù sao đó chưa phải là vấn đề hệ trọng mang tính sinh tử. Vấn đề nghiêm trọng là ở chỗ, hai cường quốc "ăn miếng trả miếng”nhau trên lĩnh vực an ninh, quân sự.

Tháng 11/2011, Mỹ có kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ tại Châu Âu. Ngay sau đó Tổng thống D. Medvedev đã nhắc lại lời cảnh cáo đanh thép của V.Putin: Nga sẽ bố trí tại ranh giới với NATO hệ thống vũ khí tấn công hiện đại nhất để huỷ diệt hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ. Đại diện Nga thường trú tại NATO tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không để người  Mỹ biến  mình thành kẻ ngốc”.

Mỹ tiếp tục bao vây và gây áp lực đối với Nga, thu hẹp không gian chiến lược của Nga từ khắp các hướng Tây Bắc, Tây, Tây Nam đối với Nga. Ngày 14/12/2012, trong chuyến thăm căn cứ không quân Incirlik ở miền Nam - Thổ Nhĩ Kỳ, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã ký lệnh bố trí hai hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot cùng 400 binh sĩ tại Thổ Nhĩ Kỳ nói là để bảo vệ Thổ Nhĩ Kỳ trước tên lửa của Xyri, thực chất là đe dọa Nga từ phía Tây Nam.

Tất nhiên, điện Kremli sẽ không thụ động đỡ đòn, mà họ chủ động và sẵn sàng “ăn miếng trả miếng". Quan điểm cứng rắn không khoan nhượng của bộ đôi quyền lực Putin - Medveder thể hiện rõ trong Chiến lược quốc phòng mới công bố ngày 5/2/2010 trong đó xác định: Nga phát triển vũ khí tấn công thế hệ mới và xây dựng quân đội Nga hung mạnh có khả năng bảo vệ vững chắc độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Putin - Medveder yêu cần START - II phải kèm theo vấn đề phòng thủ tên lửa (NMD) mà Mỹ xây dựng ở Đông Âu nói riêng, trên thế giới nói chung, việc Mỹ xây dựng NMD làm mất cân bằng chiến lược buộc Nga phải xem xét lại.

Như vậy, từ năm 1991   đến năm 2012,  qua bốn đời tổng thống Mỹ (Bush cha, Clinton, Bush con, Obama), quan hệ Mỹ - Nga gập ghềnh, thăng trầm qua 4 giai đoạn, trong đó chỉ có 2 giai đoạn ngắn (2001- 2002 và 2009 - 2010) là tương đối êm ấm, còn phần lớn thời gian ở trong trạng thái lạnh nhạt, căng thẳng theo kiểu “ăn miếng trả miếng". Khách quan và nghiêm túc phải thừa nhận: quan hệ Mỹ - Nga lạnh nhạt, băng giá chủ yếu do Mỹ lợi dụng vấn đề  dân chủ, nhân quyền để can thiệp thô bạo vào công tiệc nội bộ của Nga, làm cho Nga chia rẽ, suy yếu, đồng thời lôi kéo các nước Ban tích, Đông Âu, Trung Á xa rời Nga, ngả theo Mỹ và  phương Tây, bằng mọi cách chèn ép bao vây và thu hẹp không gian chiến lược của Nga.

QUAN HỆ MỸ - NGA TRONG NHIỆM KỲ II CỦA B. OBAMA

Một câu hỏi, quan hệ Mỹ - Nga đi về đâu ?!

 Không chỉ người Mỹ, người Nga, mà có thể nói đây là vấn đề được cả thế giới quan tâm, vì đây là hai cường quốc có sức mạnh quân sự lớn nhất thế giới. Cho dù vấn đề “an ninh phi truyền thống” và vấn đề “sức mạnh mềm” có quan trọng bao nhiêu thì vẫn phải xếp sau sức mạnh quân sự. An ninh truyền thống, sức mạnh cứng với hạt nhân là bộ ba vũ khí hiện đại: vũ khí hạt nhân, tên lửa hành trình và tàu ngầm, tàu sân bay và các phương tiện chuyển tải khác vẫn là nhân tố chủ yếu để phân vai, xác định vị trí, vai trò của các quốc gia trên sân khấu chính trị thế giới hiện nay.

Vực thẳm khó khỏa lấp trong quan hệ Mỹ - Nga là hai cường quốc này thiếu lòng tin đối với nhau: Mỹ không tin Nga và Nga càng không tin Mỹ.

Không tin nhau, nhưng họ cần đến nhau: Nga cần Mỹ và Mỹ cũng cần Nga.

Trong việc giải trừ vũ khí hạt nhân, hạn chế phát triển vũ khí tấn công chiến lược và cấm phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, Mỹ rất cần sự hợp tác của Nga.

Trong việc giải quyết các điểm nóng khu vực (cuộc xung đột ở Xyri, chương trình hạt nhân bị nghi ngờ của Iran, quan hệ Ixraen - Palex-tin…) Mỹ cần sự hợp tác của Nga.

Trong cuộc chiến chóng khủng bố, nhất là cuộc chiến ở Ápganixtan, Mỹ rất cần sự hợp tác và hỗ trợ của Nga. Ngược lại Nga cũng cần sự hợp tác của Mỹ trong nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích của Nga.

Về kinh tế, Nga cần Mỹ, các nước EU, Nhật Bản cả nguồn tài chính và công nghệ, kỹ thuật hiện đại thông qua việc thu hút FDI từ ba trung tâm kinh tế thế giới. Để chuyển mô hình phát triển kinh tế từ dựa vào xuất khẩu năng lượng (dầu mỏ, khí đốt) và nguyên liệu, mô hình này kém sức cạnh tranh và phụ thuộc vào thị trường thế giới, sang mô hình phát triển theo chiều sâu với hàm lượng chất xám cao trong hàng hóa dịch vụ nhất thiết Nga phải mở rộng, thúc đẩy hợp tác toàn diện về kinh tế với Mỹ, EU và Nhật  Bản.

Lịch sử, hiện tại và tương lai, Nga gắn với Châu Âu, Bắc Mỹ và đây là hướng phát triển chủ yếu của Nga.

Về an ninh, quốc phòng, Nga và Mỹ đều cần đến nhau.

Trong điều kiện Trung quốc trỗi dậy mạnh mẽ và đang thách thức vai trò và lợi ích của Mỹ trên nhiều lĩnh vực trọng yếu và tại các khu vực chiến lược, muốn hay không Mỹ rất cần giữ ổn định quan hệ với Nga và không để rơi vào trạng thái cùng một lúc phải đương đầu đối phó với hai cường quốc (Trung quốc và Nga).

Ngược lại, Nga cũng có nhu cầu ổn định quan hệ với Mỹ đề tập trung phát triển kinh tế và tránh một cuộc chạy đua quân sự tốn kém ảnh hưởng lớn đến sự phục hồi của Nga.

Những Phân tích trên cho phép rút ra 5 nhận định khái quát sau:

- Một là, để bảo vệ lợi ích chiến lược, chủ quyền và sự phát triển của quốc gia trong điều kiện diễn ra cuộc đua tranh quyết liệt giữa các cường quốc hàng đầu thế giới, Nga cần hợp tác với Mỹ và Mỹ cũng cần hợp tác với Nga.

- Hai là, Mỹ và Nga cần đến nhau, nhưng họ thiếu lòng tin đối với nhau.

- Ba là trong quan hệ Mỹ - Nga, Mỹ thường ở thế chủ động, trong nhiều trường hợp Nga bị động đối phó.

- Bốn là, từ năm 1991 đến nay, Mỹ luôn có nhiều hoạt động chèn ép, thu hẹp không gian chiến lược của Nga, can thiệp vào công việc nội bộ của Nga, làm cho Nga suy yếu.

- Năm là, Trung Quốc luôn là ẩn số lớn trong mối quan hệ Mỹ - Nga. Người Nga không bao giờ quên một thời Trung Quốc ddã bán đứng họ để đi với Mỹ và Mỹ cũng đã thành công (một thời) dùng con bài Trung Quốc để chống Nga. Do đó sự biến thiên, thăng trầm trong quan hệ Mỹ - Nga luôn chịu tác động của quan hệ Mỹ - Trung và quan hệ Trung - Nga.

Từ tất cả những điều trình bày ở trên, có thể dự báo khái quát về xu hướng phát triển quan hệ Mỹ - Nga trong nhịêm kỳ II (2012-2016) của Tổng thống B.Obama như sau: Mỹ tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của Nga và xây dựng lá chẵn tên lửa ở Châu Âu. Hai vấn đề này tạo ra hố ngăn cách trong quan hệ Mỹ - Nga và làm cho mối quan hệ giữa diện Kremli và Nhà Trắng tiếp tục lên xuống thất thường, nhưng sẽ không dẫn tới khủng hoảng, đến chiến tranh lạnh, mà cơ bản ổn định, hai bên nhân nhượng nhau nhằm từng bước cải thiện, đến cuối nhiệm kỳ II của B.Obama (2012 - 2016) quan hệ Mỹ - Nga sẽ tốt hơn cuối nhiệm kỳ I (2008 - 2012).

Quan hệ Mỹ - Nga được cải thiện là phù hợp với xu thế chủ đạo của thế giới hiện nay là hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong điều kiện đó, các nước trong đó có Việt Nam, có thể tận dụng cơ hội thuận lợi để phát triển đất nước. Ngược lại những chuyện trục lợi trên quan hệ Mỹ - Nga theo kiểu “Toạ sơn quan hổ đấu” sẽ không vừa lòng trong quan hệ Mỹ - Nga được cải thiện mặc dù bên ngoài vẫn tỏ ra ủng hộ! ./.

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ MỸ - NGA TRÊN THẾ GIỚI

Năm 2009 - 2010 có nhiều sự kiện quan trọng về kinh tế khiến dư luận quốc tế quan tâm đến vai trò của Trung Quốc trên sân khấu chính trị - kinh tế quốc tế và mối quan hệ Mỹ - Trung.

Năm 2010 tổng lượng GDP của Trung Quốc đã vượt tổng GDP của Nhật Bản đưa kinh tế Trung Quốc vươn lên vị trí thứ 2 trên thế giới (sau Mỹ)

Trong hai năm 2009-2010 khi ba trung tâm kinh tế thế giới là Mỹ, EU, Nhật Bản vẫn loay hoay dưới hố sâu suy thoái, khủng hoảng, bế tắc, thì kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng với tốc độ 8-10% làm dư luận thế giới phải ngỡ ngàng khâm phục. Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc lớn nhất thế giới, vượt trên 3.000 tỷ USD, họ đã mua hơn 1.000 tỷ USD trái phiếu của chính phủ Mỹ và trở thành chủ nợ lớn nhất của nền kinh tế số 1 thế giới.

Bị choáng ngợp trước ánh hào quang của các sự kiện và số liệu trên, cộng đồng quốc tế, nhất là Mỹ, Tây Âu và nhiều nước đang phát triển đã có hai sự nhầm lẫn, ngộ nhận lớn và cho rằng:

1) Trung Quốc sẽ cứu nền kinh tế thế giới thoát khỏi khủng hoảng, bế tắc;

2) Quan hệ Mỹ -Trung là mối quan hệ quan trọng nhất thế giới và thế giới bắt đầu thời kỳ sống trong cấu trúc quyền lực G2 (Mỹ và Trung Quốc sẽ quyết định vận mệnh của thế giới giống như Mỹ và Liên Xô giai đoạn 1949 - 1991).

Họ nhầm lẫn vì thiếu hiểu biết về lịch sử tư tưởng Trung Quốc và tâm tính người Hoa.

Trung Quốc không sẵn sàng mở hầu bao ra cứu nền kinh tế thế giới như người ta lầm tưởng.  Quan hệ Mỹ - Trung chưa phải là mối quan hệ quốc tế quan trọng đến mức có thể trở thành cấu trúc quyền lực mới G2. Về kinh tế tổng lượng GDP của Trung quốc lớn thứ hai thế giới, song chất lượng phát triển kinh tế rất thấp với các điểm nổi bật: không cân bằng không hợp lý không bền vững và năng suất, hiệu quả thua xa Mỹ, Nhật và EU. Về quân sự, cả số lượng và chất lượng của các vũ khí chiến lược hiện đại Trung Quốc còn thua xa Mỹ và Nga, một thập niên nữa cũng chưa đuổi kịp “bác Sam" và '”bác Gấu" !

Ít ra là từ nay đến năm 2020, trong việc giải quyết những vấn đề trọng đại của thế giới và các điểm nóng khu vực (trừ vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên), Nga luôn có vai trò quan trọng hơn Trung quốc, và Mỹ cần Nga hơn Trung quốc. Vì thế, trên sân khấu chính trị thế giới  nếu không thừa nhận Nga có vai trò lớn hơn Trung Quốc, thì cũng không thể cho rằng Trung Quốc quan trọng hơn Nga.

Quan hệ Mỹ-Nga và quan hệ Mỹ-Trung là hai mối quan hệ quốc tế quan trọng nhất trên thế giới đồng thời cũng là những mối quan hệ trắc trở, gập ghềnh, phức tạp và khó đoán định nhất.

Những thách thức đối với Liên minh châu Âu

 

Những thách thức đối với Liên minh châu Âu trong giai đoạn hiện nay

Năm 2000 là một năm đáng nhớ đối với người dân châu Âu bởi vì năm nay người dân châu Âu sẽ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên minh châu Âu. Lịch sử hình thành Liên minh châu Âu bắt nguồn từ Tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó là R. Schuman, ngày 9/5/1950 (1) , nêu sáng kiến thành lập Cộng đồng Than- Thép chung giữa Pháp và Đức và mở ngỏ cho các nước châu Âu khác. Đây là sự kiện lịch sử đánh dấu sự hợp tác giữa các nước châu Âu sau rất nhiều lần xung đột trong lịch sử. Sau 50 năm tồn tại và phát triển cho thấy Liên minh châu Âu quả là một hình mẫu về liên kết khu vực thành công nhất.

Khi mới thành lập, Liên minh châu Âu chỉ có 6 nước: Pháp, Đức, Italia, và các nước Benelux (Bỉ, Hà Lan và Luxembua), đến nay Liên minh đã có tới 15 quốc gia với tổng số dân lên đến 374 triệu người, và dự kiến trong tương lai số thành viên của EU có thể là 28 - 30 nước. Không gian của châu Âu dường như không còn giới hạn, giờ đây người dân châu Âu có thể tự do đi lại không cần visa (2), và nếu như mọi chuyện đều như dự kiến thì vào năm 2002 (3) , người dân châu Âu sẽ được sử dụng tiền giấy và tiền xu euro. Hiện nay, EU đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế hàng đầu của thế giới và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của kinh tế thế giới với GDP tương đương 5544,11 tỷ euro (trong khi Mỹ là 7317,55 và Nhật Bản là 3512,43 tỷ euro).

Về kinh tế, Liên minh châu Âu đã thiết lập được thị trường chung từ năm 1993, trao đổi giữa các nước trong Liên minh trở nên thuận tiện vì các hàng rào thuế quan đã được dỡ bỏ. Trong những năm qua, vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu A' làm cho nền kinh tế nhiều nước bị rung chuyển, tốc độ tăng trưởng GDP của EU vẫn tiếp tục được duy trì với mức độ tương đối cao (xem bảng 1). Cho đến nay, giá trị thương mại của Liên minh châu Âu chiếm tới 20% giá trị thương mại của thế giới và GDP của EU chiếm tới 20% GDP của toàn thế giới (4).

Về tiền tệ, với những bước khởi đầu của Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu cuối những năm 80 (trong bản báo cáo của Delors năm 1989), Liên minh châu Âu đã thực hiện đầy đủ lịch trình của Liên minh kinh tế và tiền tệ dự kiến ban đầu gồm 3 giai đoạn và giai đoạn cuối cùng là việc ra đời đồng euro. Do các tiêu chí để gia nhập Liên minh kinh tế và tiền tệ hết sức khắt khe và cụ thể, cho đến nay chỉ có 11 quốc gia tham gia vào Liên minh kinh tế và tiền tệ này (Hy Lạp vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chí mà Liên minh đề ra, còn 3 nước Anh, Đan Mạch và Thuỵ Điển vẫn chưa sẵn sàng gia nhập Liên minh này). Việc đồng euro ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch tài chính giữa các nước thành viên và điều quan trọng hơn là nó đã phần nào phá bỏ được vị trí độc tôn trong giao dịch tiền tệ quốc tế của đồng USD.

Bên cạnh những thành tựu nói trên, phải thấy rằng hiện nay Liên minh châu Âu đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Về mặt xã hội, tỷ lệ thất nghiệp của EU vẫn thuộc loại cao (xem bảng 2). Cao nhất là Tây Ban Nha - 14,9%, thấp nhất là Luxembua - 2,2% và số người thất nghiệp của EU đã lên tới con số 15 triệu người vào thời điểm hiện nay (5).

Bên cạnh đó, đồng tiền chung euro cũng đã phải chịu không ít sóng gió. Việc đồng euro liên tục bị mất giá trong mấy tháng qua đã làm nhiều nhà kinh tế châu Âu lo ngại. Nếu như vào thời điểm ra đời đồng euro (1/1999), các nhà lãnh đạo EU còn băn khoăn lo ngại về "đồng euro mạnh" (1 USD = 0,84 euro) sẽ làm ảnh hưởng đến các nền kinh tế châu Âu, nhất là tình hình xuất khẩu của tổ chức này, thì giờ đây họ lại phải đối mặt với tình trạng ngược lại "đồng euro yếu - trong những tháng qua đồng euro liên tục bị mất giá trị so với đồng đôla (tính đến giữa tháng 9/2000 đồng euro đã mất tới 27% giá trị (6). Tình trạng trên trước mắt sẽ khuyến khích được tình hình xuất khẩu của EU, nhưng về lâu dài, nếu Ngân hàng trung ương châu Âu không có những chính sách tiền tệ thích hợp để chấm dứt tình trạng này thì sức sản xuất của các doanh nghiệp ở châu Âu sẽ bị giảm và các chính phủ sẽ phải dừng các cải tổ cơ cấu ở mỗi nước (7).

Mới đây, ngày 18/10, kết quả cuộc trưng cầu dân ý ở Đan Mạch để xem người dân Đan Mạch đã sẵn sàng gia nhập khu vực đồng euro chưa, thực sự nằm ngoài mong muốn của các nhà lãnh đạo EU với kết quả 53,1% người không ủng hộ so với 46,9% người ủng hộ. Mặc dù đây chỉ là ý kiến của người dân Đan Mạch chứ không phải của cả châu Âu, nhưng kết quả này phần nào đã làm cho ý chí của người dân châu Âu ít nhiều bị lung lay và điều này cũng cho thấy người dân châu Âu vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào đồng euro.

Theo các nhà nghiên cứu, ngoài việc phải đối mặt với một số khó khăn về kinh tế - xã hội như đã nói ở trên, hiện nay Liên minh châu Âu đang phải đối mặt với 3 thách thức lớn sau đây: vấn đề mở rộng Liên minh, cải cách các thể chế của Liên minh và vấn đề xây dựng một chính sách an ninh và phòng thủ chung.

1. Vấn đề mở rộng Liên minh châu Âu:

Trước hết, cần phải khẳng định rằng vấn đề mở rộng Liên minh về phía Đông vẫn là một mục tiêu lâu dài của EU. Trong tương lai EU vẫn phải chú trọng tới việc mở rộng sang phía Đông và phía Nam vì những lợi ích sau đây:

- Tăng sự ổn định cho châu lục và có thể sẽ ngăn chặn được những cuộc xung đột như ở Nam Tư cũ.

- Tăng cường trao đổi trong thị trường nội khối, lượng người tiêu thụ sẽ tăng từ 374 lên đến 480 triệu người.

- Việc mở rộng sẽ làm tăng vị thế của châu Âu trên trường quốc tế nhất là trong những đàm phán về thương mại.

Tuy nhiên, giai đoạn hiện nay đang đặt cho Liên minh rất nhiều vấn đề. Từ 6 nước thành viên ban đầu, Liên minh châu Âu hiện nay có tới 15 nước thành viên (8). Nhưng kết nạp thêm các thành viên khác là một vấn đề nan giải và thực sự là một thách thức đối với EU hiện nay. Hiện đang có 13 quốc gia đệ đơn xin gia nhập EU, đó là : Hungari, Ba Lan, Cộng hoà Séc, Bungari, đảo Síp, Estonia, Lettonia, Lituania, Malta, Roumania, Slovakia, Slovenia và Thổ Nhĩ Kỳ (9). Những lý do khiến EU chần chừ là:

Thứ nhất, đó là sự chênh lệch về mức sống giữa mặt bằng chung của EU với mức sống của các nước ứng cử viên. Hiện nay, nền kinh tế EU đang khởi sắc, mức sống của công dân trong Liên minh nhìn chung khá cao, trong khi nền kinh tế của các nước ứng cử viên vẫn còn thấp. Đơn cử như GDP theo đầu người của Slovenia chỉ bằng 59% bình quân GDP của EU, tại Ba Lan con số này chỉ tương đương với 31%, ở Hungari là 37% và với Cộng hoà Séc là 55%.Trình độ phát triển của các nước này vẫn còn chưa tương xứng với mặt bằng chung của EU hiện nay, chính vì vậy rất có thể các nước này sẽ là "lực ỳ" cản trở sự phát triển của châu Âu. Như vậy EU sẽ gặp phải khó khăn khi kết nạp thêm các nước này, vì nếu xét theo logic thì Liên minh châu Âu sẽ bị giảm sức mạnh của mình. Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, nếu kết nạp thêm 5 nước đầu tiên xin gia nhập thì GDP bình quân theo đầu người của EU sẽ giảm từ 17.260 Euro xuống còn 15.740 Euro.

Thứ hai, là vấn đề kinh phí. Để kết nạp các nước thành viên mới thì EU cần phải có một khoản tài chính không phải là nhỏ để giúp các nước này về mặt kỹ thuật và cơ cấu. Nhưng trong dự toán tài chính giai đoạn 2000-2006 của Lịch trình 2000 thông qua 3/1999, không cho phép xem xét một kế hoạch mở rộng trước những năm cuối của giai đoạn này và rất có thể phải đến năm 2003 EU mới có thể xem xét việc kết nạp thêm thành viên mới (10).

Thứ ba, kết nạp quá nhiều các quốc gia có nền văn hoá và chế độ chính trị khác nhau thì liệu có ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính sách chung của châu Âu? Việc kết nạp thêm Thổ Nhĩ Kỳ- một đất nước đa phần là dân đạo Hồi, EU có phải đương đầu với vấn đề tôn giáo?

2. Vấn đề cải tổ Liên minh châu Âu:

Các thể chế và cách thức làm việc của Liên minh châu Âu hiện nay tỏ ra không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Cơ cấu tổ chức của Liên minh 6 nước không còn thích hợp với một Liên minh gồm 15 nước như hiện nay và có thể sẽ gồm 28 nước trong tương lai. Hiện nay Uỷ ban châu Âu đang bị chỉ trích rất nhiều về cách làm việc, về quản lý kém và là thể chế không còn ảnh hưởng. Chính vì vậy, lần đầu tiên trong lịch sử của thể chế này, dưới áp lực của nghị viện châu Âu, Uỷ ban châu Âu của ông Jacques Santer đã phải từ chức tập thể. Uy tín của ông Prodi hiện nay cũng đang bị giảm sút nghiêm trọng. Chính vì vậy, những cải cách về thể chế của EU là tất yếu và theo các hướng sau :

Cải cách quy mô Uỷ ban châu Âu: Hiện nay Uỷ ban gồm 20 thành viên (5 nước lớn- mỗi nước 2 thành viên, 10 nước nhỏ- mỗi nước 1 thành viên). Dự án cải cách chủ trương sẽ giảm số uỷ viên. Các nước lớn trong EU đều muốn giữ số uỷ viên của mình trong khi các nước nhỏ cũng đòi sự bình đẳng. Sau này, khi EU mở rộng với 28 hoặc 30 nước, đây sẽ là một khó khăn thực sự khi đưa ra các quyết nghị của Uỷ ban.

Mở rộng lĩnh vực bỏ phiếu bằng hình thức đa số áp đảo. Hình thức bỏ phiếu đồng thuận trên thực tế là rất bất cập. Nếu chỉ vì vài nước không bỏ phiếu tán thành thì các quyết định sẽ không được thực hiện. Trong tương lai, EU đang xem xét việc cải cách chế độ bỏ phiếu bằng việc tăng dần các lĩnh vực bỏ phiếu đa số áp đảo, điều này có nghĩa là trong tương lai, một nước thành viên của EU sẽ phải áp dụng một chính sách chung ngay cả khi họ bỏ phiếu chống trong khi các nước khác bỏ phiếu thuận; xem xét lại chế độ tỷ lệ các phiếu cho các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng của Liên minh. Vấn đề cải tổ bộ máy của EU có thể sẽ được giải quyết khi Hội đồng châu Âu họp ở Nice vào tháng 12/2000. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề này trên thực tế đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực lớn của các nước thành viên EU.

3. Vấn đề xây dựng cơ chế an ninh chung:

Vấn đề này không phải là mới đối với EU. Trong lịch sử tồn tại của mình, EU đã không ít lần thể hiện mong muốn có một cơ chế an ninh chung cho cả khu vực. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, thế giới chia làm hai phe nên châu Âu muốn thực hiện mong muốn này để có một sự đảm bảo về an ninh cho châu lục. Tuy nhiên, mong muốn này đã bị mờ nhạt trước những ý đồ và sự đối đầu Xô- Mỹ, và ý tưởng đó của EU đã liên tiếp thất bại: trong kế hoạch xây dựng một Cộng đồng phòng thủ châu Âu năm 1954 cho đến Kế hoạch Fouchet năm 1961.

Đầu những năm 90, những tưởng mong muốn này cũng sẽ mất đi cùng với sự kết thúc của chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, sự phức tạp của quan hệ quốc tế giai đoạn hậu chiến tranh lạnh như tình hình Nam Tư cũ, sự kiện Kosovo đã làm cho EU ý thức được nguy cơ mất ổn định của các cuộc xung đột , ảnh hưởng đến sự phát triển của lục địa già này. Trong những sự kiện trên, EU luôn hành động trong khuôn khổ NATO - một tổ chức mà ai cũng biết là do Mỹ chi phối. Chính vì vậy, châu Âu không thể có tiếng nói của chính mình, không thể hành động theo cách nghĩ của riêng mình mà phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ. Do đó, hơn bao giờ hết EU muốn có Bản sắc chung về an ninh, muốn chủ động trong các hoạt động quân sự để duy trì ổn định khu vực và độc lập trong hành động và suy nghĩ bằng cách tách ra khỏi NATO và thành lập một lực lượng quân sự của riêng mình. Mong muốn xây dựng một chính sách an ninh và phòng thủ chung của châu Âu dựa trên 3 lợi ích sau đây:

*Thứ nhất, là để tăng cường khả năng giải quyết xung đột và duy trì sự ổn định trong khu vực.

*Thứ hai, EU muốn có lực lượng phòng thủ riêng của mình nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ NATO.

*Thứ ba, khi sức mạnh kinh tế của EU đã tương đối lớn, một hình ảnh châu Âu độc lập về quốc phòng và an ninh sẽ làm tăng cường vị thế của EU trên trường quốc tế.

Quyết tâm thực hiện mục tiêu này của EU ngày càng lớn, và đã trở thành một trong những ưu tiên trong nhiệm kỳ từ 1/7 đến 31/12/2000 của Pháp trong cương vị Chủ tịch Liên minh châu Âu. Y' chí này bộc lộ rõ qua các cuộc tiếp xúc kể cả song phương lẫn đa phương và nhất là trong các cuộc họp thượng đỉnh:

*Tháng 7/1998, 6 Bộ trưởng Quốc phòng châu Âu (Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Anh và Thuỵ Điển) đã nhất trí tạo điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục lại nền công nghiệp quân sự của châu Âu và tháo gỡ những trở ngại trong những vấn đề liên quan đến thẩm quyền của Bộ trưởng Quốc phòng;

*Tháng 9/1998, các nước như Pháp, Đức, Italia và Anh đã kí Hiệp ước thành lập Tổ chức hợp tác chung về mặt vũ khí (OCCAR) - tổ chức này có nhiệm vụ tiến hành các chương trình vũ khí được các nước thành viên giao phó. Hiệp ước này đang được nghị viện các nước xem xét và phê chuẩn;

*Tháng 12/1998, Hội nghị thượng đỉnh Pháp - Anh diễn ra ở Saint-Malo đã bước đầu dự thảo cho Tuyên bố chung, nhấn mạnh châu Âu cần phải có khả năng hành động độc lập với lực lượng quân đội và những phương tiện cần thiết để có thể tham gia giải quyết khủng hoảng;

*Tháng 5/1999, Hội nghị thượng đỉnh Pháp - Đức diễn ra ở Toulouse, hai nước đã khẳng định mong muốn trang bị cho EU những phương tiện độc lập cần thiết để quyết định và hành động khi gặp khủng hoảng;

*Tháng 6/1999, Hội đồng châu Âu họp ở Cologne đã khẳng định mong muốn của các nước châu Âu thúc đẩy việc xây dựng một chính sách quốc phòng chung.

Trong hai ngày 10 - 11/12/1999, khi Hội đồng châu Âu họp ở Helsinki, EU đã tuyên bố đến năm 2003 sẽ thành lập lực lượng quân sự riêng của châu lục, ước tính bao gồm từ 50.000 đến 60.000 người (11).

Lực lượng phản ứng nhanh của EU trong tương lai sẽ hành động một cách độc lập: với quân đội riêng (quân số do các nước thành viên đóng góp, phương tiện riêng (máy bay và tàu chiến...) và cả một người chỉ huy riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, để thực hiện được mục tiêu thì EU còn có rất nhiều việc phải làm để lực lượng này có vai trò quyết định trong việc giải quyết xung đột trong khu vực: EU phải giải quyết vấn đề có quá nhiều lực lượng quân đội cùng tồn tại: liệu quy chế nhà nước trung lập của A'o, Thuỵ Sĩ có còn không khi EU có chính sách phòng thủ và an ninh chung; mâu thuẫn của các nước lớn trong EU vì mặc dù quyết tâm thực hiện của các nước giống nhau, nhưng mục tiêu của các nước không như nhau. Rất có thể từ những mục tiêu này, sẽ nảy sinh ra những mâu thuẫn nhất định. Và một khó khăn khác khá quyết định đó là hiện nay chi phí cho quốc phòng của EU đang bị giảm sút. Từ năm 1992 đến nay, chi phí cho quốc phòng của EU đã giảm 22%, riêng năm 1999 là 7%. Tình hình này ở mỗi nước là khác nhau: ngân sách dành cho quốc phòng của Anh và Pháp lần lượt là 2,7 và 2,8% GDP, trong khi trung bình con số này ở các nước châu Âu khác dao động từ 1-1,5% GDP, ngân sách dành cho quốc phòng của Đức hiện nay chiếm 1,5% thay vì 3,4% GDP cách đây 10 năm. Từ năm 1992 đến năm 1996, ngân sách quốc phòng của EU đã giảm 43%. Nếu so sánh một cách đơn giản giữa châu Âu và Mỹ trong lĩnh vực này, thì chi phí cho quốc phòng của Mỹ lớn hơn nhiều. Trong năm 1997, chi phí dành cho quốc phòng của 5 nước có tiềm lực quân sự lớn ở châu Âu chỉ chiếm 1,8% GDP, trong khi con số này của Mỹ là 3,38% GDP. Liên quan đến những thiết bị quốc phòng, Châu Âu chi cho lĩnh vực này chỉ bằng một nửa so với Mỹ: năm 1999, Mỹ chi 48,5 tỷ USD, 54 tỷ USD trong năm 2000 và dự tính sẽ chi 61 tỷ USD vào năm 2001. Trong 5 năm tới, con số này dự tính sẽ là 70,9 tỷ USD (12). Như vậy chúng ta có thể thấy rõ mâu thuẫn giữa mục tiêu và thực tế của EU. Để xây dựng được lực lượng phản ứng nhanh của mình, EU sẽ phải làm thế nào trong khi tình trạng ngân sách dành cho quốc phòng liên tục bị cắt giảm. Trước mắt, để giải quyết được vấn đề này, có lẽ EU sẽ phải dựa vào việc hợp tác giữa các tổ hợp quân sự của các nước và dựa vào sự đóng góp những phương tiện sẵn có của các nước. Nhưng về lâu dài, tình hình ngân sách dành cho quốc phòng cần phải được cải thiện.

Những thành công trong suốt 50 năm tồn tại và phát triển cho thấy EU là một điển hình về liên kết khu vực. Trong tương lai, EU không chỉ bằng lòng với sức mạnh kinh tế của mình mà còn muốn tăng cương vai trò chính trị để trở thành một cực trong thế giới đa cực như EU mong muốn. Để đạt được điều này, chắc chắn EU sẽ phải từng bước khắc phục và giải quyết những khó khăn và thách thức: vấn đề tương quan giữa "sức mạnh châu Âu" với "không gian châu Âu", vấn đề cải cách thể chế và đặc biệt là vấn đề xây dựng lực lượng phản ứng nhanh của châu Âu, từng bước tiến tới xây dựng chính sách an ninh và phòng thủ chung. Trong nhiệm kỳ "gai góc" này, Pháp trong cương vị Chủ tịch EU sẽ phải đương đầu với nhiều thách thức và, với uy tín và tiếng nói của mình Pháp sẽ giải quyết được những vấn đề trên ở mức độ nào? Trên đây là những thách thức lớn đối với bước phát triển và mục tiêu tiếp theo của châu Âu. EU cần phải dần dần gạt bỏ được những khó khăn đó để tự khẳng định chính mình và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.

LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

 


LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

Viết tắt là EU, là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên. Ngày nay, EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba trung tâm lớn nhất trong nền kinh tế thế giới (Hoa Kỳ, Nhật và EU) với GDP năm 2000 đạt 9.050 (khoảng 20% toàn cầu). GDP tính theo đầu người năm 2000 đạt trên 24.000 USD, đồng thời EU cũng là Trung tâm Thương mại Tài chính khổng lồ với đồng EURO ngang hàng với đồng USD (đôla Mỹ) và tính tới tháng 6/2004 vẫn còn cao hơn đồng USD, 1 EURO = 1,25 USD.

 

Sự ra đời Liên minh châu Âu và tiến tới nhất thể hoá

Hiện nay, chúng ta chỉ biết đến một EU hùng mạnh với trên 50 tuổi, nhưng trong số chúng ta không mấy ai biết rằng ngay từ thời Saclơ Đại đế thuộc đế chế La Mã (thế kỉ thứ VII sau Công nguyên), ý tưởng về một châu Âu thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, ý đồ thống nhất châu Âu chỉ thuộc về một vài nhà chính trị, quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà trí thức có tư tưởng cấp tiến; còn đại bộ phận châu Âu vẫn thờ ơ, thậm chí không hề có ý tưởng gì về điều đó, mặc dù châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất.

Đến năm 1923, Bá tước người Áo – Condanhve Kalagi đã sáng lập ra “Phong trào Liên Âu” nhằm thiết lập “Hợp chủng quốc châu Âu” để làm đối trọng với “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ; và vào năm 1929, ngoại trưởng Pháp lúc bấy giờ là Aristide Briand cũng đưa ra đề án thành lập “Liên minh châu Âu”, nhưng đều không thành. Phải đến sau Thế chiến lần thứ II, những ý tưởng thống nhất châu Âu này mới trở thành hiện thực.

Đại chiến thế giới thứ II kết thúc đã làm đảo lộn trât tự thế giới nói chung và trật tự ở châu Âu nói riêng. Trật tự thế Yalta với hai cực là hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô trở thành lực lượng mới khống chế toàn cầu. Cùng với sự thay đổi đó, châu Âu cũng bị chia cắt thành hai khu vực: Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa còn Tây Âu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Và trong khi Liên Xô với vai trò là “thành trì” của phong trào cộng sản quốc tế, dẫn dắt “nửa kia” của châu Âu, có vị thế ngày càng lớn rộng, thì Hoa Kỳ nhờ chiến tranh mà phát triển vượt bậc cả về kinh tế lẫn quân sự, còn Tây Âu đang phải đối mặt với sự suy yếu toàn diện và nguy cơ tụt hậu. Cho dù thắng trận hay bại trận thì nền kinh tế các nước Tây Âu đều rơi vào tình trạng kiệt quệ. Còn về quân sự thì cả hai phía đồng minh và phát xít đều không tránh khỏi những tổn thất nặng nề. Nguy cơ mất vai trò “trung tâm thế giới” của Tây Âu đã trở thành hiện thực.

Hơn nữa, người châu Âu nhận thấy rằng để loại trừ tận gốc mầm mống của hai cuộc đại chiến thế giới đã gây không biết bao nhiêu tổn thất cho châu Âu, cần phải tước bỏ quyền độc lập sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hai ngành kinh tế quan trọng nhất của châu Âu lúc bấy giờ là than và thép, chủ yếu nằm trong tay Pháp và Đức, hai quốc gia luôn có những căng thẳng chính trị - mối hiểm hoạ tiềm tàng của nền hoà bình châu Âu. Chính trong bối cảnh đó, nhu cầu hợp tác và liên kết chặt chẽ, toàn diện giữa các quốc gia Tây Âu trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Chỉ bằng con đường hợp tác hoà bình, các nước Tây Âu mới giải quyết được những khó khăn chồng chất sau chiến tranh, phát triển nội lực và tăng thế cạnh tranh với bên ngoài. Chưa bao giờ các quốc gia Tây Âu lại ý thức rõ ràng và cấp bách về vấn đề một cộng đồng chung đến như vậy. Và một yêu cầu tất yếu, hết sức cần thiết được đặt ra là phải thành lập được một tổ chức quyền lực siêu quốc gia có sứ mệnh điều hành phối hợp các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia sao cho hiệu quả. Đòi hỏi khách quan đó đã trở thành nguồn gốc của sự liên kết giữa các quốc gia Tây Âu - mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển Tây Âu nói riêng cũng như của cả châu Âu nói chung.

Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành của EU là bản “Tuyên bố Schuman” của Bộ trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09 tháng 05 năm 1950 với đề nghị đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của Cộng hoà liên bang Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng tham gia. Sau đó, Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), một tổ chức tiền thân của EU ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết giữa các quốc gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với đỉnh cao là một Liên minh châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và trong tương lai có thể sẽ đạt tới cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại hơn 50 năm hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu, có thể thấy quá trình này gắn liến với các hiệp ước chủ yếu sau đây (từ năm 1951 đến nay):

- Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (ECSC) (European Coal and Steel Community hay viết tắt là ECSC) nhằm phối hợp quản lý giá cả, sản xuất và điều kiện lao động liên quan đến các tài nguyên than và thép là những mặt hang hang đầu vào thiết yếu cho sản xuất quân nhu- những yếu tố góp phần gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới được ký ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức, Italy, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg, nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính là thép và than trên toàn lãnh thổ châu Âu. Hiệp ước này đã chứa đựng ý đồ của các nhà sáng lập ECSC là gây dựng nền tảng cho việc nhất thể hoá kinh tế châu Âu.

- Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/31957 với sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Mục đích thành lập EURATOM là để thống nhất việc quản lý ngành năng lượng nguyên tử của 6 nước thành viên; trong khi đó EEC ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường liên kết kinh tế giữa 6 nước này, tạo ra một tập hợp sức mạnh kinh tế tổng hợp dưới hình thưc một “thị trường chung” mà lao động hàng hoá được tự do di chuyển như một thị trường nội địa. Hiệp ước Rome là kết quả của những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế và chính trị mà ECSC đã đạt được. Và có thể nói, hiệp ước này đã mở ra một hướng liên kết giữa các quốc gia châu Âu đánh giá sự ra đời của một liên minh kinh tế thật sự Cộng đồng kinh tế châu Âu (EE).

- Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1965 giữa các nước của 3 nước Cộng đồng này dưới tên gọi: Cộng đồng châu Âu. Đây là văn bản xác nhận một cấp độ nhất thể hóa kinh tế cao hơn giữa các quốc gia này thể hiện việc thành lập một thị trường thống nhất; trong đó, ngoài việc hàng hoá, lao động và vốn đầu tư được tự do di chuyển, hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng được rỡ bỏ, hệ thống thuế quan và chính sách thương mại chung được thành lập, một số chính sách đối với các lĩnh vực kinh tế khác cũng được thống nhất nhằm tăng sức cạnh tranh với các khối kinh tế bên ngoài, tiến tới một liên minh chặt chẽ về chính trị.

- Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu được ký ngày 07/2/1992 tại Maastricht – Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của nguyên thu quốc gia các nước thành viên (lúc này, số thành viên của EC là 12 nước bao gồm: Pháp, Đức, Bỉ, Italy, Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan mạch, Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) nhằm thành lập một “không gian châu Âu” thống nhất về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và các chính sách về xã hội. Như vậy, EU đã được bổ sung thêm các nội dung liên kết mới (an ninh, chính trị , đối ngoại) mà các tổ chức tiền thân của nó chưa có, để đạt được các mục tiêu toàn diện hơn như: duy trì bảo vệ hoà bình và thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất về kinh tế vì lợi ích chung của các dân tộc châu Âu thông qua việc tạo ra một khu vực kinh tế rộng lớn, một khu vực thị trường tự do, thống nhất, tạo điều kiện cho việc thống nhất về chính trị và hài hoà về xã hội trong liên minh. Với mục tiêu như vậy, EU đã thực sự bước vào một thời kỳ mới, tồn tại như một thực thể thống nhất, hay những nói đúng hơn là đóng vai trò như một “Đại quốc gia” ở châu Âu, một “Ngôi nhà chung châu Âu”.

- Hiệp ước Amsterdam được ký vào ngày 2/10/1997 bởi các nguyên thủ của 15 nước thành viên (năm 1995 EU đã kết nạp thêm 3 nước thành viên nữa là: Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo). hiệp ước này được hình thành trên cơ sở sửa đổi hiệp ước Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây dựng một liên minh kinh tế - tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực. Hiệp ước này đã tao cơ sở pháp lý để đồng EU đồng tiền chung của các nước châu Âu chính thức ra đời với tư cách đầy đủ của một đồng tiền thực thụ và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1999 trong phạm vi 11 nước (EU-11): Đức, Pháp, Ailen, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italy, Luxembourg, Phần Lan. Theo kế hoạch đã được định trước, đúng ngày 1/1/2002, các đồng Euro bằng giấy và bằng kim loại đã chính thức đi vào lưu thông tiền tệ song hành với các đồng bản tệ và bắt đầu giai đoạn đổi tiền. Và kể từ ngày 1/7/2002, các đồng bản tệ của tất cả 11 nước thuộc EU -11 đã kết thúc lịch sử tồn tại của mình, vĩnh viễn rút khỏi lưu thông, chính thức nhường chỗ hoàn toàn cho đồng Eurro đang là đồng tiền chung, duy nhất lưu hành trong tất cả các quan hệ kinh tế - xã hội các những nước thành viên. Một “Ngôi nhà chung châu Âu” đã hình thành.

- Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới và gồm các vấn đề :

+ Cải cách thể chế: đổi mới thành phần Uỷ ban châu Âu (Uỷ ban châu Âu sẽ có không quá 27 uỷ viên, trong đó mỗi nước sẽ có một uỷ viên, được chỉ định theo nguyên tắc luân phiên, sẽ thực hiện từ năm 2005. Chủ tịch uỷ ban sẽ được trao thêm một số thẩm quyền mới, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương và việc lựa chọn chủ tịch EC sẽ được quyết định theo nguyên tắc đa số đủ thẩm quyền; phân định số phiếu bầu trong Hội đồng Bộ trưởng, cụ thể: Pháp, Đức, Anh, Italy có cùng số phiếu bầu là 29, Tây Ban Nha có phiếu bầu là 27 phiếu, Hà Lan có phiếu bầu là 13 phiếu, Bỉ có phiếu bầu là 12 phiếu, và các nước còn lại sẽ có từ 3 đến 7 phiếu. Tổng số phiếu bầu sẽ là 345 khi số thành viên EU là 25 nước(1) nguyên tắc bỏ phiếu theo đa số đủ thẩm quyền: hiện đang áp dụng cho 80% quyết định, 20% vấn đề còn lại các nước vẫn giữ quyền phủ quyết của minh, đặc biệt đối với những vấn đề nhạy cảm, động chạm đến lợi ích quốc gia).

+ Tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu. Số ghế nhiều nhất là 99 (tăng 12 so với số cũ). Pháp, Anh và Italy chỉ còn 74 (giảm 13 so với số cũ). tổng số nghị sĩ tương lai sẽ là 738.

+ Về chính sách an ninh và quốc phòng: EU thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF) từ năm 2003, bao gồm 60.000 quân với 100 tầu chiến và 400 máy bay trong thời gian 60 ngày. RRF sẽ có cơ cấu điều hành thường trực gồm uỷ ban quân sự bà Bộ tham mưu đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của EU.

Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là cả một quá trình phát triển phức tạp với các hình thức liên kết kinh tế quốc tế được phát triển chặt chẽ, toàn diện và hoàn toàn mới về vật chất. Và cho đến nay, sau nhiều nỗ lực thiết thực của EU, tiến trình nhất thể hoá châu Âu đã đạt được các kết quả rất khả quan trên nhiều lĩnh vực

+ Về an ninh: EU lấy NATO và liên minh phòng thủ Tây Âu (WCU) làm hai trụ cột chính. Tuy nhiên, EU đang cố gắng tạo cho mình “một cánh tay quân sự” bên cạnh “cánh tay kinh tế” với bản sắc riêng của mình, hạn chế sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ.

+ Về chính trị: đang diễn ra quá trình chính trị hoá các nhân tố kinh tế, anh ninh, nghĩa là kết hợp các phương tiện kinh tế và quân sự nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế. Trong nội khối đã và đang diễn ra quá trình hợp nhất và thống nhất các đường biên giới quốc gia nhằm tăng cường quyền lực và quản lý chung. Còn đối với bên ngoài, EU đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực bằng các hiệp định song phương và đa phương.

+ Về xã hội: về cở bản, các nước thành viên đang áp dụng một chính sách chung về lao động, bảo hiểm, môi trường, năng lượng, giáo dục, y tế, (tuy nhiên, vẫn còn một số lĩnh vực chưa thống nhất).

+ Về kinh tế: GDP của EU năm 1988 đạt 8.482 tỷ USD, được xem là lớn nhất thế giới (NAFTA: 8.150 tỷ USD, ASEAN: 845 tỷ USD), năm 2000 đạt 9004 tỷ USD, năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm 1995-2000 gần 2,2. Đây là khu vực kinh tế đạt trình độ cao về kỹ thuật, công nghệ, thiết bị, máy móc; đặc biệt là về cơ khí, năng lượng, nguyên tử, dầu khí, hoá chất, dệt may, điện tử, công nghiệp vũ trụ và vũ khí.

+ Về thương mại: EU là trung tâm thương mại lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, với doanh số 1.527,5 tỷ USD năm 1997, trong đó 50% là buôn bán giữa các nước thành viên. Năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng hoá của EU đạt 2.441,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hoá nội khối đạt 1.502,2 tỷ USD, xuất khẩu hàng hoá ngoại khối đạt 939 tỷ USD. Về nhập khẩu hàng hoá: năm 2002, EU đạt 2.437 tỷ USD, trong đó nhập khẩu nội khối đạt 1.506 tỷ và ngoại khối đạt 931 tỷ USD. Như vậy, thương mại của EU phần lớn phát triển mạnh trong nội bộ khối nhờ khối tác động của chính sách nhất thể hoá kinh tế khu vực. Ngày 1/5/2004, EU có 25 nước thành viên sau khi kết nạp thêm 10 quốc gia mới. Với việc mở rộng lần thứ 5 này. EU trở thành một khối kinh tế và thị trường lớn nhất thế giới, với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vị chiếm khoảng 21,9% kim ngạch nhập khẩu của tập đoàn thế giới.

Ở Tây Âu, việc chuyển sang chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia, mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, hình thành sự liên hiệp quốc tế của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước, hay còn gọi là nhất thể hóa quốc tế. Nửa cuối những năm 50, đã xuất hiện hai hình thức liên hợp quốc tế của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước: khối thị trường chung và khối mậu dịch tự do. Hình thức liên hiệp cao nhất là khối thị trường chung, thành lập ngày 25-3-1957 bằng việc kí kết hiệp ước Rôma giữa 6 nước: Pháp, CHLB Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lucxembua. Sau khi ra đời (năm 1957), EEC đã có nhiều nổ lực trong tiến trình nhất thể hóa Châu Âu. Bước vào thập niên 60, nền kinh tế Châu Âu đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhờ việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan trong trao đổi thương mại nội khối. Bên cạnh đó, nhằm xóa cảnh nghèo đói ở các quốc gia thành viên, các nước Châu Âu tiến tới thỏa thuận kiểm soát, bổ trợ sản xuất và tiêu thụ nông sản trong khối. Kết quả, Châu Âu trở thành lục địa xuất siêu về nông sản. Tháng 1-1973, cộng đồng Châu Âu tiến hành việc  mở rộng khối lần đầu tiên với việc kết nạp thêm Anh, Ailen và Đan Mạch, đưa số thành viên lên 9 nước. Song,  tăng trưởng kinh tế của Châu Âu không được thuận lợi do chiến tranh Trung Đông lần thứ ba ( tháng 10-1973), dẫn đến cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn thế giới. Trong thập niên 70, cộng đồng hướng sự quan tâm tới các chính sách vùng, thúc đẩy kinh tế ở vùng kém phát triển, nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thông qua các dự án hỗ trợ việc làm, cải thiện kết cấu hạ tầng. Năm 1979 nghị viện Châu Âu lần đầu tiên áp dụng chế độ bầu cử trực tiếp : vai trò của nghị viện được tăng cường đối với các vụ việc trong nội bộ liên minh.

Bước vào thập niên 80, thế giới chứng kiến một Châu Âu đầy biến động. Năm 1981, Hi Lạp trở thành thành viên thứ 10 của EEC, 5 năm sau đến lượt Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ( năm 1986). Tháng 2-1986, các nước EEC kí vào  « Định ước duy nhất » sẽ có hiệu lực từ ngày 1-7-1987. Văn kiện hướng tới một chính sách đối ngoại chung của EEC. Mục tiêu này đòi hỏi các nước thành viên phải tiến hành thường xuyên các cuộc tham khảo ý kiến, phối hợp chính sách, cộng tác chặt chẽ hơn trong những vấn đề an ninh nhằm góp phần đáng kể vào sự phát triển một Châu Âu có diện mạo riêng trong lĩnh vực đối ngoại. Với mục tiêu như vậy, sự liên kết các nước trong khối vượt khỏi phạm vi kinh tế, mở rộng sang lĩnh vực chính trị và an ninh. Vì vậy, kể từ đây EEC  trở thành cộng đồng Châu Âu (EC), tập hợp dưới lá cờ xanh với 12 ngôi sao vàng nối kết thành vòng tròn.

            Như vậy sau hơn 30 năm thành lập, EEC rồi sau đó là EC đã đạt được những bước tiến dài trong quá trình nhất thể hóa Châu Âu. Tuy nhiên, cho đến đầu thập niên 90, EC vẫn chưa xây dựng được một không gian kinh tế chung cho cả Châu Âu. Các thể chế do EC lập ra chỉ mới dừng lại ở tính chất liên chính phủ, chứ chưa đạt đến vai trò siêu quốc gia, EC vẫn chưa tạo được sự thống nhất trong việc hoạch định chính sách hay đề ra các biện pháp đối phó với vấn đề quốc tế phức tạp. Do vậy, EC vẫn chưa phát huy hết tiềm năng của mình. Tuy nhiên vào cuối thập niên 80- đầu thập niên 90, một loạt các biến cố xảy ra ở các nước Đông Âu và Liên Xô dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tan rã của liên bang Xô Viết- góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình nhất thể hóa Châu Âu. Trước mắt, những biến chuyển ở Đông Âu và Liên Xô và sự ra đời của nước Đức thống nhất đã tạo cơ hội để các nước Tây Âu liên kết thành EC xác định lại chỗ đứng riêng trên trường quốc tế. Để thúc đẩy nhanh hơn việc thành lập một Châu Âu thống nhất, ngày 22-10-1991, EC kí với EFTA một hiệp ước thành lập « Không gian kinh tế Châu Âu » trong năm 1993.

Nhờ những thành công đạt được về kinh tế lẫn chính trị, EC tiếp tục mở rộng các quá trình liên kết, hợp tác rộng rãi giữa các nước và các dân tộc. Đỉnh cao của quá trình thống nhất Châu Âu được thể hiện qua cuộc họp thượng đỉnh cao các nước thuộc EC tổ chức tại Maaxtrich( Hà Lan) ngày 9 và ngày 10-12-1991. Hội nghị thông qua hiệp ước Maaxtrich cho ra đời liên minh Châu Âu (EU) trên cơ sở EC. Hiệp ước Maaxtrich quyết định thống nhất chính sách ngoại giao và tiền tệ, định ra đơn vị tiền tệ chung Châu Âu( ECU) làm cơ sở cho thống nhất tiền tệ ở Châu Âu. Đây là một dấu ấn lịch sử đáng ghi nhớ. Mặc dù các nhà lãnh đạo thuộc các nước EC muốn đến ngày 1-1-1993, họ sẽ thiết kế nên một Châu Âu không những thống nhất về kinh tế, tiền tệ mà thành hẳn một liên minh chính trị, qua đó có thể cạnh tranh với Mỹ trong tương lai. Những người dân Đan Mạch đã bỏ phiếu phủ quyết hiệp ước Maaxtrich. Quốc hội Anh cũng kéo dài việc phê chuẩn Hiệp ước này. Hiệp ước Maaxtrich bị gác lại, hệ thống tiền tệ Châu Âu bị xáo trộn.Các nước Đức và Pháp công khai chỉ trích nước Anh. Đồng bảng Anh và đồng Lira của Italia rút khỏi cơ chế Châu Âu. Điều đó phản ánh sự yếu kém của liên kết Châu Âu và chứng tỏ con đường đi tới việc hình thành  một thị trường lớn và liên minh chính trị Châu Âu còn gặp nhiều khó khăn. Mỹ cũng phản ứng với hiệp ước này, vì cho rằng những chủ trương này chủ yếu nhằm vào Mỹ và cuối cùng sẽ đánh bật Mỹ ra khỏi Châu Âu. Để đối phó lại, một mặt Mỹ thúc đẩy xây dựng khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ, mặt khác sử dụng sách lược li gián EC. Trong chừng mực nào đó, Mỹ đã góp phần làm chậm quá trình phê chuẩn hiệp ước Maaxtrich. Vượt qua nhiều khó khăn và bất đồng chính kiến, các nhà lãnh đạo Tây Âu vui mừng đón nhận quyết định của CHLB Đức, quốc gia cuối cùng trong 12 nước thuộc EC- phê chuẩn và tham gia hiệp ước này. Tháng 10-1993 nước Bỉ đương kim chủ tịch EC tuyên bố triệu tập hội nghị Maaxtrich. Và ngày 1-11-1993, hiệp ước Maaxtrich có hiệu lực. EC gồm 12 nước chuyển thành EU, đặt nền móng hướng tới một « hợp chúng quốc Châu Âu ».

Năm 1989 Áo xin gia nhập EC và bắt đầu quá trình liên kết với EC. Trong cuộc trưng cầu ý dân ở nước này, 66,4% cử tri đồng ý Áo gia nhập EU và hội đồng Châu Âu quyết định tiếp nhận Áo là thành viên chính thức của EU bắt đầu từ ngày 1-1-1995. Chính phủ các nước Phần Lan và Thụy Điển cũng quyết định gia nhập EU. Những cuộc trưng cầu ý dân ở các nước này năm 1994 đạt được kết quả tích cực, với tỷ lệ tương ứng là 57% và 52% số cử tri đồng ý gia nhập EU. Hội đồng Châu Âu cũng quyết định tiếp nhận Phần Lan và Thụy Điển làm thành viên chính thức của EU bắt đầu ngày 1-1-1995. Như vậy với lần mở cửa thất bại, bắt đầu từ ngày 1-1-1995, EU bước vào thời kì phát triển mới gồm 15 thành viên. Điều đó cho thấy bước tiến quan trọng trong tiến trình hòa nhập Châu Âu và ảnh hưởng của EU không chỉ đến tình hình kinh tế và chính trị của từng nước, mà còn đến cả Châu Âu.

Sau đó các nước Đông Âu cũng tham gia vào quá trình liên kết Châu Âu, đồng thời mở rộng thị trường chung để tạo ra chất xúc tác bổ sung cho sự tăng trưởng kinh tế. sáu nước Đông Âu gồm : Bungari, Ba Lan, Hunggari, cộng hòa Ctech, Slovakia và Romania xúc tiến gia nhập EU với vai trò là thành viên liên hiệp. Các nước này chấp nhận chiến lược do EU đề ra đối với việc mở rộng EU sang các nước Đông Âu. Các nước EU bảo đảmcho các nước Đông Âu rằng họ sẽ tiến hành các cuộc trao đổi thường xuyên để giúp đỡ các nước này nhanh chóng gia nhập EU. Mở đầu là hội nghị cấp cao 15 nước EU và 6 nước Đông Âu tại Đức vào tháng 12-1994, kết thúc với việc xác định những vấn đề ưu tiên trong giai đoạn ngắn hạn và trung hạn của EU.

 

Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Liên minh châu Âu

Nhằm thực hiện những mục tiêu chung đã được đề ra trong các hiệp ước, EU đã xây dựng cho mình một hệ thống thể chế “ siêu quốc gia” để điều hành, giám sát quá trình liên kết của các quốc gia thành viên. Hệ thống thể chế này bao gồm các cơ quan chính sau:

- Hội đồng châu Âu: bao gồm những người đứng đầu nhà những nước, chính phủ các nước thành viên và chủ tịch Uỷ ban châu Âu. Hội đồng châu Âu có nhiệm vụ xác định những định hướng lớn của EU và đóng vai trò như mọi diễn đàn chính trị.

- Hội đồng bộ trưởng: bao gồm Bộ trưởng các nước thành viên. Đây là cơ quan lập pháp tối cao của EU, chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của Liên minh, đưa ra các quy chế, chỉ thị mang tính bắt buộc đối với các thành viên, đồng thời cũng chịu trách nhiệm về hợp tác liên minh chính phủ. , chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của EU, bao gồm các bộ trưởng đại diện cho các thành viên. Các nước luân phiên làm chủ tịch với nhiệm kì 6 tháng. Giúp việc cho hội đồng có ủy ban đại diện thường trực và có ban tổng thư kí. Từ năm 1975, người đứng đầu nhà nước , hoặc chính phủ, các ngoại trưởng, chủ tịch và phó chủ tịch ủy ban Châu Âu có các cuộc họp thường kì để bàn quyết định những vấn đề lớn của EU. Cơ chế này gọi là hội đồng Châu Âu hay hội nghị thượng đỉnh EU.

- Uỷ ban châu Âu: là cơ quan hành pháp của EU, gồm 20 uỷ viên được uỷ nhiệm trên cơ sở sự thoả thuận của các nước thành viên và phải được Quốc hội châu Âu tán thành. Uỷ ban châu Âu đề xuất lên Hội đồng Bộ trưởng các biện pháp phát triển chính sách chung và theo dõi việc tôn trọng các hiệp ước, nhiệm kì 5 năm do các chính phủ nhất trí cử và chỉ bị bãi miễn với sự nhất trí của nghị viên Châu Âu. Dưới các ủy viên là các tổng vụ trưởng chuyên trách từng vấn đề, từng khu vực.

- Nghị viện châu Âu: là cơ quan lập pháp của EU, bao gồm 626 nhiệm kì 5 năm nghị sĩ của các nước thành viên và được chia ra thành 18 uỷ ban. Nghị viện châu Âu có chức năng thông qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, cùng hội đồng châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực. Nghị viện cũng có quyền bãi miễn uỷ viên Uỷ viên ban châu Âu, được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Trong nghị viện các nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị khác nhau, không theo quốc tịch. Chức năng chính là thông qua ngân sách, cùng hội đồng Châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực, kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, có quyền bãi miễn các chức vụ ủy viên ủy ban Châu Âu.

- Toà án châu Âu: đặt trụ sơ tại Luxembourg, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sự do các chính phủ thoả thuận bổ nhiệm, do các chính phủ thỏa thuận bổ nhiệm, nhiệm kì 6 năm.Toà án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức của uỷ ban châu âu, văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU. Tòa án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức của ủy ban Châu Âu, văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU.

- Toà kiểm toán châu Âu: có chức năng kiểm tra các khoản tài chính của EU để đảm bảo tính hợp pháp của các khoản thu chi, đồng thời phối hợp với các cơ quan thể chế khác của EU để thực hiện các hoạt động có liên quan đến tài chính của mình.

- Uỷ ban kinh tế và xã hội: là cơ quan đại diện cho lợi ích của các nhóm người trong xã hội, có nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ cho Hội động Bộ trưởng và Uỷ ban châu Âu.

- Uỷ ban về khu vực: có chức năng tư vấn cho các cơ quan thể chế của EU về các vấn đề liên quan tới lợi ích của các đơn vị địa phương và khu vực.

- Ngân hàng Đầu tư châu Âu: đảm bảo trách những hiệm cấp phát tín dụng cho các tổ chức nhà nước, các doanh nghiệp của các nước thành viên trên cơ sở nguồn vốn của các nước thành viên đóng góp hoặc vốn vay quốc tế.


Liên minh Châu Âu dựa trên 3 trụ cột chính

+ Liên minh kinh tế và tiền tệ, hiệp ước Maaxtrich dự tính thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ chung. Quá trình thực hiện sẽ trải qua 3 giai đoạn, bắt đầu ngày 1-7-1990 tới ngày 1-1- 1999, giải tán viện tiền tệ Châu Âu, lập ngân hàng trung ương Châu Âu( ECB- European Central Bank) và kết thúc bằng việc ban hành một đồng tiền chung. Đồng tiền này chủ yếu được lưu hành sau khi các quốc gia đã hoàn tất một số quy định do liên minh đề ra. Ngay sau khi thành lập, đồng tiền ECU được đưa vào sử dụng. Điều kiện để tham gia vào liên minh kinh tế - tiền tệ ( còn gọi là những tiêu chí hội nhập) : lạm phát thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3 nước có mức lạm phát thấp nhất, thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP, nợ nhà nước dưới 60% GDP và biên độ dao động tỉ giá giữa các đồng tiền ổn định trong 2 năm theo cơ chế chuyển đổi( ERM), lãi suất ( tính theo lãi suất công trái thời hạn từ 10 năm trở lên) không quá 2% so với nước trung bình của 3 nước có lãi suất thấp nhất.

+ Hướng đến một chính sách đối ngoại và an ninh chung, mục tiêu của EU không chỉ là một tổ chức kinh tế và tài chính, mà còn mong muốn đảm nhận một vai trò chính trị trên trường quốc tế ngang tầm với sức mạnh kinh tế của nó. Đến thời điểm thích hợp, EU sẽ đem lại sự hợp tác  an ninh chung, thay vị trí hiện nay của NATO. Các thỏa ước được kí tại hội nghị về an ninh và hợp tác Châu Âu diễn ra ở Helainki năm 1975 tạo nền tảng pháp lí cho tiến trình kể trên.

+ Tăng cường cộng tác trong lĩnh vực cảnh sát và tư pháp, quy mô của quan hệ cộng tác này rất rộng vì bao gồm chính sách tị nạn, nhập cư, đấu tranh chống khủng bố, chống ma túy và chống buôn lậu quốc tế, cộng tác tư pháp, thuế quan và cảnh sát. Ngày 19-6-1990, thoả ước Schengen được thỏa thuận xong. Đến 27-11-1990, 6 nước : Pháp, Đức, Luxembua, Bỉ, Hà Lan, Italia kí hiệp ước Schengen. Hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha kí ngày 25-6-1991 và 26-3-1995, hiệp ước có hiệu lực ở 7 nước thành viên. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên. 14/15 nước thành viên EU đã tham gia khu vực schengen ( trừ Anh). Thỏa ước này xóa bỏ việc kiểm tra cảnh sát trong biên giới nội địa của các nước thuộc EU, tăng cường tính hiệu quả trong công tác kiểm tra biên giới bên ngoài, kể cả đơn xin tị nạn, cũng như việc lập hồ sơ những kẻ bị tình nghi hay bị truy nã.

 

Về kinh tế, chính trị, xã hội và đối ngoại của EU

Trải qua không ít những thăng trầm trong gần một nửa cuối thế kỷ XX, giờ đây châu Âu đang dần lấy lại vị trí “ trung tâm thế giới” của mình. Đặc biệt, trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước EU đã thực sự khẳng định được vị thế là một trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể và tương đối ổn định. Tăng trưởng GDP của EU trong năm 1996 là 1,6%, năm 1997 là 2,5%, năm 1988 là 2,7%, năm 1999 là 2,0%, và cho đến năm 2000 thì cả châu Âu “thở phào nhẹ nhõm”với tốc độ tăng GDP là 3%, cao nhất từ cuối thập ký 80 cho tới năm cuối cùng của thế kỷ XX. Năm 1988 khi cơn bão tả chính làm nghiêng ngả nền kinh tế thế giới thì EU – khu vực ít bị ảnh hưởng nhất của khủng hoảng – vẫn tiếp tục quá trình phát triển kinh tế của mình.

Theo các nhà kinh tế, sự ổn định kinh tế của EU được xem là một trong những nhân tố chính giúp cho nền kinh tế thế giới tránh được nguy cơ suy thoái toàn cầu. Năm 1999 tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU có chiều hướng giảm do sự sụt giá của đồng Euro và sản xuất công nghiệp giảm sút. Nhưng chỉ với riêng sự suy giảm này cũng chưa thể đưa ra một kết luận tiêu cực về nền kinh tế EU, bởi ngày cả khi tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, lạm phát của EU trong năm 1999 vẫn ở mức 1,1%- mức thấp chưa từng có trong lịch sử, tỉ lệ thất nghiệp giảm lần đầu tiên trong thập kỷ 90 từ hơn 10% xuống còn 9,4% trong năm 1999 và thâm hụt ngân sách của các nước thành viên cũng ở mức thấp: 0,5% - 0,7% GDP. Tình hình kinh tế EU trong năm 1999 đã được cải thiện và phát triển tích cực. Năm 2000, GDP của EU cao hơn năm 1999 gần 1,1%, tăng trưởng tốc độ 3% các năm 2001-2002 do tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp (cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ - Anh phát động ở Afganixtan, chiến tranh chống Iraq) đã tạo nguy cơ chưa từng có chia rẽ nội bộ EU và ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế châu Âu. Khoảng cách giữa các quốc gia trong khối ngày càng thu hẹp. Trong số các quốc gia thuộc EU thì các nước nhỏ Bắc Âu tỏ ra tiến mạnh nhất, nước Đức khổng lồ thường bị tụt hậu trong mấy năm gần đây cũng đã bắt kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả khối. Chỉ có Italy, mặc dù hơi yếu về khả năng cạnh tranh cũng đã vươn lên với tốc độ tăng trưởng 2,6 % trong năm 2000, tuy nhiên vẫn bị coi là mức thấp nhất trong khối. Theo uỷ ban châu Âu, kinh tế EU vẫn đang phát triển khả quan. Các chuyên gia kinh tế của IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) và OECD (Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế) cũng rất lạc quan vào sự tiếp tục phát triển kinh tế của EU bởi Ngân hàng trung ương châu Âu tiếp tục kiểm soát chặt chẽ mức cấp tiền và duy trì mức lãi xuất khá ổn định ở mức 4,5%. Theo dự báo của OECD, trong năm 2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế EU vẫn sẽ ổn định ở mức trên dưới 2,6%, tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm đáng kể từ 8,8% năm 2003. Các nhà kinh tế cho rằng “EU tăng trưởng chậm nhưng chắc” và vẫn tin tưởng khẳng định xu hướng đi lên của kinh tế EU trong những năm tới 2010 và tầm nhìn tới 2020.

Một trong nhưng nội dung quan trọng của hiệp ước Maaxtrich kí năm 1992 là việc thành lập Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu( EMU), trong đó có việc đưa vào sử dụng đồng tiền chung duy nhất của các nước thành viên. Hội nghị thượng đỉnh Dublin vào tháng 12-1996 đề xướng hiến chương về sự ổn định và được chính thức thông qua tại hội nghị Amtesdam ( Hà Lan) tháng 6-1997 với nội dung cơ bản là hợp pháp hóa 5 tiêu chuẩn hội nhập, tổ chức chỉ đạo xây dựng các quy tắc, cơ chế kiểm soát, triển khai các chính sách tài chính-ngân sách nhà nước của các nước thành viên. Đến năm 1998, trừ Hi Lạp còn 14 nước khác thuộc EU đều đạt các tiêu chuẩn trên. Do đó ngày 2-4-1998, nguyên thủ 15 quốc gia EU hợp nhất tại Bỉ, chính thức quyết định sự ra đời của EURO( tên gọi mới thay cho đồng ECU). Ngày 9-5-1998, nghị viện Châu Âu chính thức ra phê chuẩn gia nhập EMU. Ngày 1-1-1999, đồng EURO chính thức ra đời với tư cách là một đồng tiền thực, chung và duy nhất của khối EMU. Theo kế hoạch từ ngày 1-1-1999 đến ngày 1-1-2002, là giai đoạn chuyển tiếp với đặc điểm chính là mỗi nước đều có hai đồng tiền chính thức, đó là đồng bản tệ đang lưu hành và đồng  EURO mới ban hành. Từ ngày 1-1-2002 việc đổi tiền diễn ra trong vòng 6 tháng và kết thúc vào ngày 1-7-2002, sau đó các đồng bản tệ sẽ hoàn toàn rút khỏi lưu thông. Việc đồng EURO ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch tài chính giữa các nước thành viên và điều quan trọng hơn là nó phần nào phá bỏ vị trí độc tôn trong giao dịch tiền tệ quốc tế của đồng USD.

 Đồng tiền chung Euro được tạo ra nhằm mục đích xây dựng một thị trường duy nhất. Ý nghĩa của hành động này bao gồm việc thúc đẩy các quyền tự do di chuyển, xóa bỏ vấn đề trao đổi ngoại tệ, cải thiện sự minh bạch về giá cả hàng hóa và dịch vụ, thiết lập một thị trường tài chính thống nhất, ổn định giá cả và lãi suất thấp và nhất là hạn chế những tác động tiêu cực do khối lượng giao dịch thương mại nội đại khổng lồ trong phạm vi Liên minh châu Âu. Đồng tiền chung euro cũng chính là biểu tượng chính trị cho sự hòa hợp và phát triển kinh tế liên tục

Về kinh tế, liên minh Châu Âu thiết lập được thị trường chung từ năm 1993, trao đổi giữa các nước trong liên minh trở nên thuận tiện vì các hàng rào thuế quan đã được bỏ dở. Trong những năm qua, vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á làm cho nền kinh tế nhiều nước bị rung chuyển, tốc độ tăng trưởng GDP của EU vẫn tiếp tục được duy trì với tốc độ tương đối cao. Cho đến nay giá trị thương mại của EU chiếm tới 20% giá trị thương mại của thế giới và GDP của EU chiếm tới 20% GDP của toàn thế giới. ngày 2-10-1997, tại Amtesdam ( Hà Lan) các nước thành viên EU kí hiệp ước Amtesdam, qua đó sửa đổi, bổ sung trong một số lĩnh vực chính : những quyền cơ bản- không phân biệt đối xử, tư pháp và đối nội, chính sách xã hội và việc làm, chính sách đối ngoại và an ninh chung. Tiếp đó vào tháng 12-2000, các nước thành viên kí hiệp ước Nice, tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của nghị viện Châu Âu, thành lập lực lượng phản ứng nhanh( RRF). Lực lượng phản ứng nhanh của EU trong tương lai sẽ hành động một cách độc lập : với quân đội riêng biệt( quân do các nước thành viên đóng góp), phương tiện riêng( máy bay và tàu chiến…) và cả một người chỉ huy riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, để thực hiện được mục tiêu thì EU còn rất nhiều việc phải làm để lực lượng này có vai trò quyết định trong việc giải quyết xung đột trong khu vực. EU phải giải quyết vấn đề có quá nhiều lực lượng quân đội cũng tồn tại : quy chế nhà nước trung lập của Áo, Thụy Sỹ có còn không khi EU có chính sách phòng thủ và an ninh chung, nhưng mục tiêu của các nước không như nhau. Rất có thể từ những mục tiêu này mà nảy sinh những mâu thuẫn nhất định.

 Dân số : Ngày 1 /1/2011, tổng dân số của 27 quốc gia thành viên thuộc Liên minh châu Âu dự tính đạt 501.259.840 người. Tuy Liên minh châu Âu chỉ chiếm 3% diện tích đất liền, dân số liên minh này chiếm đến 7,3% dân số thế giới. Mật độ dân số lên đến 115,9 người/km ² đã khiến cho Liên minh châu Âu trở thành một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới.

Về đối ngoại,theo tinh thần của hiệp ước Maaxtrich, chính sách đối ngoại và an ninh chung ( CFSP)  là hệ thống hợp tác giữa toàn thể các nước thành viên EU trong các vấn đề chính trị quốc tế. Đối với các chính phủ mỗi nước thành viên, CFSP được xem là công cụ bảo vệ lợi ích quốc gia trong thời đại phụ thuộc lẫn nhau. Hợp tác và liên kết trong lĩnh vực chính trị sẽ giúp các nước EU  có tiếng nói thống nhất và có điều kiện phản ứng nhanh, xử lí năng động trước các vấn đề quốc tế và khu vực. Trong những năm qua với việc ra đời của CFSP, EU thiết lập được quan hệ ngoại giao với 135 nước và EU cũng tăng cường sự hiện diện của mình trong nhiều tổ chức quốc tế. EU cũng đã củng cố và cải thiện được quan hệ với Mĩ và tổ chức đối thoại có hiệu quả với Nhật Bản. Quan hệ giữa EU và Nhật Bản tương đối tốt đẹp trên cơ sở cạnh tranh và bổ sung cho nhau vì mục tiêu tạo đối trọng với Mĩ. Trong quan hệ với ASEAN, EU xác lập và thúc đẩy mạnh mẽ các quan hệ hợp tác chính trị bên cạnh các quan hệ hợp tác kinh tế truyền thống. Chẳng hạn, cả EU và ASEAN  có quan điểm giống nhau về nhiều vấn đề như tầm quan trọng của hiệp ước, không phổ biến vũ khí hạt nhân, tình hình ở biển Đông và bán đảo Triều Tiên…Ngoài ra, EU cũng tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ an ninh khu vực Châu Âu và giữ gìn hòa bình thế giới. ngay sau khi khẳng định CFSP. Các nước EU tham gia trực tiếp vào việc giải quyết vấn đề ở Nam Tư ( cũ). Ngoài Đông Âu, EU cũng tích cực tham gia các công việc của quốc tế ở khu vực Trung Đông, Nam Phi, Rwanda, Checnya..

 

Những khó khăn và thách thức của EU trong tương lai

Khó khăn lớn nhất là hiện nay chi phí cho quốc phòng của EU đang giảm sút. Từ năm 1992 đến nay, chi phí cho quốc phòng của EU giảm 22%, riêng năm 1999 là 7%. Tình hình này ở mỗi nước cũng khác nhau : ngân sách dành cho quốc phòng của Anh và Pháp lần lượt là 2,7,và 2,8% GDP, trong khi trung bình con số này ở các nước khác dao động từ 1-1,5% GDP, ngân sách dành cho quốc phòng của Đức hiện nay chiếm 1,5% thay vì 3,4% GDP cách đây 10 năm. Từ năm 1992 đến năm 1996, ngân sách quốc phòng của EU giảm 43%. Nếu so sánh một cách đơn giản giữa Châu Âu và Mĩ trong lĩnh vực này, chi phí quốc phòng của Mĩ lớn hơn nhiều. Trong năm 1997, chi phí quốc phòng của 5 nước có tiềm lực quân sự  lớn ở Châu Âu chỉ chiếm 1,8% GDP, trong khi con số này của Mĩ là 3,38% GDP. Liên quan đến những thiết bị quốc phòng ChâuÂu chi cho lĩnh vực này chỉ bằng 1/2 so với Mĩ : năm 1999, Mĩ chi 48,5 tỉ USD, 54 tỉ USD trong năm 2000 và dự tính sẽ chi 61 tỉ USD vào năm 2001. Như vậy, chúng ta sẽ thấy rõ mâu thuẫn giữa mục tiêu và thực tế của EU. Để xây dựng được lực lượng phản ứng nhanh, EU sẽ phải làm thế nào trong khi tình trạng ngân sách dành cho quốc phòng liên tục bị cắt giảm. Trước mắt, để giải quyết được vấn đề này, có lẽ EU sẽ phải dựa vào hợp tác giữa các tổ hợp quân sự của các nước và dựa vào sự đóng góp những phương tiện sẵn có của các nước. Nhưng về lâu dài, tình hình ngân sách dành cho quốc phòng cần phải được cải thiện.

Những thành công trong suốt 50 năm tồn tại và phát triển cho thấy EU là một điển hình về liên kết khu vực. Trong tương lai, EU không chỉ bằng lòng với sức mạnh kinh tế của mình mà còn muốn tăng cường vai trò chính trị để trở thành một cực trong thế giới đa cực như EU mong muốn. Để đạt được điều này, chắc chắn EU sẽ phải từng bước khắc phục và giải quyết những khó khăn và thách thức : vấn đề tương quan giữa «  sức mạnh Châu Âu » với « không gian Châu Âu », vấn đề cải cách thể chế và đặc biệt là vấn đề xây dựng lực lượng phản ứng nhanh của Châu Âu, từng bước tiến tới xây dựng chính sách an ninh và phòng thủ chung. Có thể nói, quá trình ra đời và phát triển của EU trong thập niên 90 là cả một quá trình đấu tranh gay gắt, một quá trình tranh chấp và thỏa hiệp. Song nhìn chung, các nước thành viên đều thống nhất mục tiêu đề ra và cam kết trong các hiệp ước. Tất nhiên, để đạt được, điều không thể tránh khỏi là khi tiến hành thực hiện các chính sách đều đụng chạm đến lợi ích quốc gia và chủ quyền dân tộc của mỗi nước.

EU thành tổ chức kinh tế - chính trị lớn nhất hành tinh, chiếm ¼ GDP thế giới. Hiện nay, EU có số dân 340 triệu người, gấp rưỡi Mĩ và gấp đôi Nhật. Tổng sản phẩm xã hội vượt quá 5,5 ngàn tỉ đôla (lớn hơn Mĩ, Mĩ có 5,2 ngàn đôla). EU chiếm 1/3 tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản, gần 50% hàng xuất khẩu và hơn 50% nguồn dự trữ chất lỏng.

Kết quả

Như vậy, con đường dẫn tới một “châu Âu thống nhất” còn là quá trình lâu dài với hàng loạt những khó  khăn cần phải giải quyết trong khi tình hình ở châu Âu và thế giới diễn ra phức tạp. Nhiều vấn đề nan giải xuất hiện ngay sau khi xoá bỏ kiểm soát biên giới giữa các nước là tệ buôn bán ma tuý, hoạt động của các nhóm maphia, vấn đề di cư và nhập cư….Đồng thời, những vấn đề rắc rối giữa lợi ích dân tộc và lợi ích chung của cả khối đã, đang và sẽ còn đặt ra trước các nước thành viên EU.