8/2/21

TỰ HÀO VỀ THẦY TS. PHAN VĂN HOÀNG (Năm Trần)

 Rất thay đổi TỰ HÀO về Thầy TS. PHAN VĂN HOÀNG (Năm Trần) , cả một thời Thanh xuân, Hiến hiến cho Tổ quốc. Nhân đầu xuân Tân Sửu, xin chúc thầy luôn khỏe và nhiều niềm vui trong cuộc sống.                                             

  Kỉ niệm, ngày 28 tháng Chạp, năm Canh Tý, nhằm ngày 8/2/2021.

Về căn cứ

07 Tháng Năm 2021 3:08 SA
ĐẶT TƯỜNG MINH




M ua hè năm 1972, Ông Tám Nam, Phó ban An ninh T4, gọi Trần Quới Sơn (Năm Trần) về căn cứ gấp. Lúc đó, căn cứ của ban tạm đóng trong một khu rừng thuộc vùng giải phóng Svay Rieng (Campuchia).

Khi mặt trời vừa lặn núi Bà Đen, Năm Trần rời Phước Chỉ (huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh). Cùng đi có một du trẻ, Tư An, vừa đường bảo vệ.

Tỉnh Tây Ninh ranh giới với tỉnh Svay Rieng. Nếu đi theo Quốc lộ số 1, thì chỉ cần qua cửa khẩu Mộc Bài và đi thêm khoảng cây nữa là đến căn cứ. Nhưng từ sau cuộc đảo chính tháng 3-1970 của Lon Nol lật đổ ông hoàng Sihanouk, quân đội Sài Gòn đóng thêm kiểm toán dọc biên giới hai nước, nên Năm Trần phải đi về hướng Nam, theo sông Vàm Cỏ Đông, xuống vùng Đức Hòa - Đức Huệ (tỉnh Long An) mới tìm ra đường mòn đi Svay Rieng.

Phước Chỉ nằm trong vùng giải phóng, đi lại thoải mái. Một đường chắc chắn, Năm Trần vào một nhà dân nhờ phương tiện. Chị chủ nhà không cho mượn mà còn cho mượn cả người chèo là cậu con trai khoảng tuổi của chị. Chiến tranh nhân dân ở nước ta là thế. Nhìn đôi tay cậu bé thoăn thoắt đưa các chiến sĩ đi công tác, Năm Trần nhớ đến câu hát trong Bài ca Hà Nội của nhạc sĩ Vũ Thanh: “Chiến công này có tay em” .   

Khi trời bắt đầu tối, hai người đến địa phận tỉnh Long An. Trước kia, đây là làng mạc, đồng sung túc. Khi đồng khởi động, quân đội được đưa ra, nhưng không thành công. Địch xem đây là vùng oanh tạc, tự cho mình quyền “ Giết bất cứ thứ gì động đậy” tại đó (Giết bất cứ thứ gì di chuyển) như nhan đề một cuốn sách của tác giả người Mỹ Nick Turse. Nông dân ở đây phải rời khỏi nhà, bỏ hoang đồng ruộng, chuyển sang các nơi khác. Một số thanh niên nam nữ thoát ly gia đình, vào du kích, bám đất giữ làng. Tư An is a example.  


Bià List,  bất cứ thứ gì động đậy

Gần đó có một căn cứ của địch, tối nào cũng cho những người lính đi tuần xung quanh, ngẫu nhiên để lại một vài tiểu đội phục vụ trên đường đi. Do đó hai người phải hết sức cảnh giác, quan sát kỹ thuật trước khi lên.

Close to the light, they to the sát biên giới. Địch thường phục hồi ở đây để đón lõng người qua lại. Tư An bảo Năm Trần sao chép vào bụi cây ven đường, một mình đi dò đường. Sau decim gap, Tư An quay lại, ra dấu “an toàn” để tiếp tục cuộc hành trình.

Hai biên giới khi trời vừa sáng. Nhớ lại bức ảnh đăng trên tờ báo Mỹ cách nay tròn hai năm, Năm Trần không khỏi cười. Ảnh chụp tổng thống Mỹ lên đài truyền hình trong đêm 30-4-1970 thông báo hàng vạn quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa vừa mở cuộc hành quân “Tìm và diệt” vào Vùng Mỏ Vẹt - Lưỡi Câu dọc biên giới Việt Nam - Campuchia. Ngón tay của Nixon chỉ đúng vào bến hai chiến sĩ Việt Cộng đang có mặt!


Tổng thống Nixon trong đêm 30-4-1970

Svay Rieng cũng như các biên giới khác của Campuchia bị bom đạn Mỹ cày xới trong thời gian dài, nhất là dưới thời Nixon. Trong phần phụ (Sideshow), William Shawcross cho biết: in gần 4 năm rưỡi, từ 18-3-1969 đến 15-8-1973, My đã xuống dưới 539.129 tấn bom, gấp 3,37 lần số bom Mỹ đã xuống Nhật Bản trong thế chiến II. Tác giả người Anh mô tả: những người dân Campuchia “di chuyển chậm, qua sông, gần như mất hết sức sống vì thần kinh sợ hãi, những máy bay ném bom vào họ, và đêm qua đêm khác một bom biển nặng 750 pound (tương đương 337 tấn) rơi xuống chung quanh họ ” (1) .

Mặc cho bom rơi đạn lạc, khắp nơi loang lổ đầy những hố bom dưới dạng mặt trăng, cuộc sống vẫn diễn ra. Sau khi rút gọn, người dân trở lại, dựng lại mái nhà xưa, sửa sang ruộng vườn… Đặc biệt, tại các phum sóc ở Sóc Nóc, Tà Nội, Chi Phú… có khá đông Việt kiều sinh sống hòa hợp với mọi người địa chỉ. Họ là nhân của “Cộng đồng tiền dịch”, của “quốc gia chiến lược”, của “nông thôn bình quân chương trình” và nhất là của các trận ném bom từ khi quân Mỹ tràn vào miền Nam. Tuy phải rời quê hương hát đây cảm ơn, song lòng họ luôn hướng về Tổ quốc, sẵn sàng ủng hộ sự nghiệp cứu nước. Nhiều gia đình cho con em gia nhập bộ đội, một số đã hy sinh trong chiến đấu.

Đến trước, hai người về căn cứ. Hay tin Năm Trần về, đồng đội đến thăm, hỏi han tình hình Sài Gòn…

Hôm đó bảy giờ tối, một du kích do Năm Trần đưa đến Văn phòng Ban lãnh đạo. Ông Tám Nam ra đón Năm Trần, hỏi thăm đôi điều khiển và dẫn vào tranh. Có một người lạ (Năm Trần chưa gặp bao giờ), khoảng 50 tuổi, áo thun ngắn tay mặc áo màu xanh. Không để Năm Trần ngỡ ngàng, ông Tám đã giới thiệu: “Đây là đồng chí Mười Hương, thủ trưởng mới của chúng ta”.

Sau khi ông Tư Trọng, Trưởng ban An ninh T4, cuộc gặp nạn, một phó ban được tạm dừng để làm quyền Trưởng ban. Nay ông Mười Hương chính thức được cử xuống ban chỉ đạo.

Sau khi trao đổi mấy câu về tình hình đi đường, ông Mười hỏi nhiều chuyện về Huế. Ông Tám Nam có giới thiệu “lý lịch” của Năm Trần (hoạt động rồi bị bắt giam ở Huế trước khi tiếp tục hoạt động tại Sài Gòn). Sau này, Năm Trần mới hiểu lý do tại sao: Bản thân ông Mười Hai cũng từng bị chế độ Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế trong gần sáu năm (1958 - 1964) tại Tòa Khâm. Sau ngày họ Ngô bị đổ, Tòa Khâm bị phá hủy để xây dựng Trường đại học Sư phạm, nơi Năm Trần ngồi học 8 năm trước. Có lẽ khi gặp Năm Trần, những kỷ niệm xưa về Huế chợt sống lại trong ký ức ông…

Có tiếng máy bay qua căn cứ. Có thể là máy bay trinh sát, cũng có thể là máy bay ném bom. Cùng một lúc, không bảo vệ ai, tất cả các ngọn đèn đều vụt tắt. Mọi người ngồi im lặng trong bóng tối, thiết bị lắng nghe từng động tĩnh. Trong khi đó, các đơn vị võ trang đã sẵn sàng đối phó với mọi tình cảm, có thể xảy ra…

Mười hai giây cân nặng trôi qua. Bay máy bay xa. Mọi người dùng đèn, tiếp tục buổi học. Ông Mười Hương nói: “Phiên bản này gọi cháu ra đây để phổ biến một số máy chủ mới của ban”.

Trong khi ông mười một cách chậm rãi, chiết xuất, Năm Trần lắng nghe như lời nói. Active active analalate an ninh mọi người chép lên giấy, mọi điều, mọi số… đều phải được “in” trong trí nhớ. Những gì ông Mười Hương nói tối hôm ấy, cách nay gần nửa thế kỷ, nhưng Năm Trần vẫn còn nhớ như mới nghe ông nói hôm qua…


Ông Mười Hương  (giữa) , ông Tám Nam  (trái) và Năm Trần trong buổi họp mặt Ban An ninh T4 tại Củ Chi sau giải phóng 

Sau Tết Mậu Thân, tôi thấy không thể thắng ở Việt Nam. Do đó, khi bước vào Nhà Trắng từ đầu năm 1969, Richard Nixon đưa ra chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh”, quân đội dần dần chinh phục Mỹ về nước, tập đoàn quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đã từng dân Mỹ sẽ được “hòa bình trong danh sách dự án”. Năm nay, 1972, là cuối năm của nhiệm kỳ đầu tiên, Nixon cần phải làm một cái gì đó để thực hiện lời hứa đó mới mong tái đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống sẽ tổ chức vào cuối năm nay. Theo dõi trạng thái hoạt động của Nixon, trên chiến trường cũng như trên bàn hội nghị Paris, chúng tôi chủ động khuyến khích Mỹ rút quân về nước. Trước đây, Bác Hồ đã từng nói với một nhà báo Anh rằng người dân Việt Nam chúng ta sẵn sàng trải thảm đỏ để quân Mỹ rút về nước (2). Trong thơ chúc Tết năm 1969, Bác không viết: “ Đanh cho Mỹ cút, lật nhào ” mà Bác viết: “ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nhào ”. Phải chăng Bác đã tách rời hai mục tiêu của cuộc chiến “Mỹ cút” và “lao động” - để quân đội và dân chúng lần lượt giải quyết từng một.

Nhìn vào mắt Năm Trần, ông ấy thấy cậu ấy chưa thông tin lắm với cái mới chủ, nên dừng lại để hỏi ý kiến. Năm Trần thành thật bày tỏ: “Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, chúng ta đã đề ra khẩu hiệu 'đuổi Mỹ, vượt chướng ngại vật'. Sao nay lại đổi? ”.

Mr. Mười ba ôn tồn giải thích:

Một là , chế độ dựa vào Mỹ để tồn tại (3) . Một khi Mỹ rút quân, chế độ sẽ lung lay tận gốc rễ, không kịp thì sẽ sụp đổ. Một câu hỏi đặt ra: “My have quay trở lại để nghiên cứu chế độ đó?”. Rất nhiều khả năng là không! (4)

Hai là , nếu cùng lúc xảy ra vụ sập chế độ với Mỹ rút quân, các đồng minh của Mỹ sẽ chịu trách nhiệm cho tôi rằng “làm việc của tôi mà chạy” và không tin tưởng ở vai trò “lãnh đạo thế giới do ”của tôi nữa. Theo lời của Kissinger, cần có “một khoảng thời gian coi cho được” ( một khoảng vừa phải ) giữa hai sự kiện đó để tôi có thể phân bua: khi Mỹ rút quân, Thiệu vẫn còn ngồi trong Định Độc Lập mà! (5)

Ba là , phái đoàn rút ra tại Hội nghị Paris đề xuất: sau khi quân Mỹ, sẽ thành lập ở miền Nam một “Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc” gồm ba thành phần, tức là có sự tham gia gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Lực lượng thứ ba. Hội đồng này sẽ tổ chức tuyển sinh để bầu ra các cơ quan có quyền lực ở miền Nam thay thế cho chính quyền Thiệu hiện nay. (6)

Càng nghe, Năm Trần càng cảm thấy thuyết phục.

Ông nói tiếp: Dự kiến ​​tình hình của ta là như thế, song thực tế có diễn ra theo ý ta hay không, điều đó thuộc nhiều yếu tố: phản kháng của đối phương có quyết liệt hay không, đồng tình of the power of the third quality has the strong or not, and the best is the force of the Army and the people we many to where, strong to đâu. Xưa nay, một khi ta có quyết tâm cao độ thì sự nghiệp của ta chắc chắn sẽ thành công.

Ông mười hai chuyển sang trình chiếu những dự án của Ban An ninh T4 trong sáu tháng cuối năm 1972. Có nhiều tác giả mới như xây dựng các “chính trị” trong nội dung, thâm nhập Lực lượng thứ ba vv…

Anh ấy phải đi nóng lại: “Chiến sĩ An ninh phải có trái tim nóng , nhưng cái đầu tiên . Có cái lạnh đầu tiên thì bình tĩnh phân tích tình hình một cách khách hàng và khoa học, mới tìm ra hiệu quả hoạt động phương thức ”. Năm Trần thường hoạt động trong vùng địch thủ, xa căn cứ, nên ghi nhớ những lời dẫn dắt của ông Mười, xem như kim chỉ nam cho mọi hành động của mình.  

Sau hòa bình ngày và hệ thống nhất, Năm Trần thường cùng đồng đội đến nhà ông Mười Hương, 


Thủ trưởng Mười Hương  (trái)  và “binh ba” Năm Trần sau 1975

Có lần ông hỏi Năm Trần: “Cháu được phong quân hàm gì rồi?”.

Năm Trần trả lời: “Thưa chú, cháu đeo lon binh ba (7)  ạ”.

Anh ấy tự hỏi: “Bình ba? Bình ba là bậc gì? ”.

Năm Trần thưa: “Dạ, binh ba dưới binh nhì một cấp, tiếng Pháp gọi là troa dèm cùi đó ạ”.

Anh Mười Hai cười vui vẻ: “Được, làm được việc mà tốt hơn là làm ông kia mà xấu”.

Câu nói thể hiện sự quan tâm của ông Mười Hương, người hy sinh suốt đời cho sự nghiệp giúp dân mà không bao giờ nghĩ đến quyền lợi, vị trí của bản thân.


(1) William Shawcross, phụ , NXB Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1989, tr.232. 

(2) Nguyên văn câu Bác Hồ nói với nhà báo Felix Greene:  “Họ có thể ra đi bất cứ lúc nào… Chúng tôi sẽ làm mọi cách để giúp họ. Chúng tôi sẽ trải thảm đỏ cho họ ”(Họ [tức quân Mỹ] có thể rời [Việt Nam] bất cứ lúc nào… Chúng tôi sẽ làm mọi thứ mà tôi có thể làm để giúp họ. Ngay cả chúng tôi tôi sẽ trải thảm đỏ cho họ [rời khỏi Việt Nam] - Hãng thông tấn AP đưa tin, ngày 20-12-1965).

(3) Trong hồi ký của mình, Nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ thừa nhận: “Mỹ kiểm soát cuộc chiến. Viện trợ Mỹ tài trợ cho nước này [chỉ VNCH]; không có nó, chúng tôi không thể sống sót ”(“ Người Mỹ đã kiểm soát cuộc chiến trong chiến tranh. Viện trợ của Mỹ tài trợ cho đất nước; không có nó, chúng tôi không thể sống sót ”- Nguyễn Cao Kỳ, How we lost the Vietnam war , NXB Stein và Day, New York, 1978, tr.137). 

(4) Dự kiến ​​của ông Mười Hương là chính xác. Theo TS Nguyễn Tiến Hưng, nguyên lý Tổng thống Thiệu về tái thiết lập, Tổng trưởng Bộ Kế hoạch và phát triển: Trọng tài khóa 1971-1972, Mỹ chi tiêu 12 tỉ đô la cho chiến tranh Việt Nam, but after draw out quân về nước, viện trợ quân đội Mỹ giảm dần cho Thiệu chế độ như sau:

Tài khóa 1972-1973: 2,1 tỉ đô la,

Tài khóa 1973-1974: 1,4 tỉ đô la,

Tài khóa 1974-1975: 0,7 tỉ (tức 700 triệu) đô la, nhưng lúc đó “khởi động lửa làm giá xe tăng gấp 4 lần, bởi vậy mãi lực thật của ngân sách nó chỉ ở phía dưới 350 Triệu chứng, bằng 3% của mức chi tiêu 1970-1971 ”(Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh chạy , Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, California, 2005, tr.222, 223). 

Mặt khác, khi thấy chế độ Thiệu nhiều lần xin tăng viện để qua cơn hấp hối, TS Henry Kissinger, cố vấn Nixon về một ninh quốc gia, đã lên một câu: “Sao họ không chết phứt cho rồi? Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng ta cứ sống dai dẳng ”(“ Tại sao những người này không chết nhanh? Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là họ sống sót ”- Nguyễn Tiến Hưng, sđd, tr. 323).

(5) Sau khi Mỹ rút hết quân, Kissinger dự đoán chế độ Thiệu chỉ có thể tồn tại “một năm” nữa (Nguyễn Tiến Hưng, sđd, tr.330).

(6) Tại Hội nghị Paris, Mỹ và VNCH đồng ý với đề xuất của ta. Nhưng sau đó, Nguyễn Văn Thiệu hô hào “Bốn không”, trong đó không có liên kết với ta.

(7) Binh nhì thấp hơn binh nhất một cấp, là thấp nhất của quân hàm trong các vũ khí trang, do đó không có cấp nào thấp hơn nữa. Nói binh ba là nói chơi cho vui. Thời Pháp thuộc, binh nhì là đềuxième classe , nói đùa là đơ dèm cùi bắp.  

Nguon: http://www.honvietquochoc.com.vn/bai-viet/6443-hv155-chuyn-v-cn-c.aspx.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét