15/12/22

LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

 


LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

Viết tắt là EU, là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên. Ngày nay, EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba trung tâm lớn nhất trong nền kinh tế thế giới (Hoa Kỳ, Nhật và EU) với GDP năm 2000 đạt 9.050 (khoảng 20% toàn cầu). GDP tính theo đầu người năm 2000 đạt trên 24.000 USD, đồng thời EU cũng là Trung tâm Thương mại Tài chính khổng lồ với đồng EURO ngang hàng với đồng USD (đôla Mỹ) và tính tới tháng 6/2004 vẫn còn cao hơn đồng USD, 1 EURO = 1,25 USD.

 

Sự ra đời Liên minh châu Âu và tiến tới nhất thể hoá

Hiện nay, chúng ta chỉ biết đến một EU hùng mạnh với trên 50 tuổi, nhưng trong số chúng ta không mấy ai biết rằng ngay từ thời Saclơ Đại đế thuộc đế chế La Mã (thế kỉ thứ VII sau Công nguyên), ý tưởng về một châu Âu thống nhất đã được hình thành. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, ý đồ thống nhất châu Âu chỉ thuộc về một vài nhà chính trị, quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà trí thức có tư tưởng cấp tiến; còn đại bộ phận châu Âu vẫn thờ ơ, thậm chí không hề có ý tưởng gì về điều đó, mặc dù châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất.

Đến năm 1923, Bá tước người Áo – Condanhve Kalagi đã sáng lập ra “Phong trào Liên Âu” nhằm thiết lập “Hợp chủng quốc châu Âu” để làm đối trọng với “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ; và vào năm 1929, ngoại trưởng Pháp lúc bấy giờ là Aristide Briand cũng đưa ra đề án thành lập “Liên minh châu Âu”, nhưng đều không thành. Phải đến sau Thế chiến lần thứ II, những ý tưởng thống nhất châu Âu này mới trở thành hiện thực.

Đại chiến thế giới thứ II kết thúc đã làm đảo lộn trât tự thế giới nói chung và trật tự ở châu Âu nói riêng. Trật tự thế Yalta với hai cực là hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô trở thành lực lượng mới khống chế toàn cầu. Cùng với sự thay đổi đó, châu Âu cũng bị chia cắt thành hai khu vực: Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa còn Tây Âu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Và trong khi Liên Xô với vai trò là “thành trì” của phong trào cộng sản quốc tế, dẫn dắt “nửa kia” của châu Âu, có vị thế ngày càng lớn rộng, thì Hoa Kỳ nhờ chiến tranh mà phát triển vượt bậc cả về kinh tế lẫn quân sự, còn Tây Âu đang phải đối mặt với sự suy yếu toàn diện và nguy cơ tụt hậu. Cho dù thắng trận hay bại trận thì nền kinh tế các nước Tây Âu đều rơi vào tình trạng kiệt quệ. Còn về quân sự thì cả hai phía đồng minh và phát xít đều không tránh khỏi những tổn thất nặng nề. Nguy cơ mất vai trò “trung tâm thế giới” của Tây Âu đã trở thành hiện thực.

Hơn nữa, người châu Âu nhận thấy rằng để loại trừ tận gốc mầm mống của hai cuộc đại chiến thế giới đã gây không biết bao nhiêu tổn thất cho châu Âu, cần phải tước bỏ quyền độc lập sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hai ngành kinh tế quan trọng nhất của châu Âu lúc bấy giờ là than và thép, chủ yếu nằm trong tay Pháp và Đức, hai quốc gia luôn có những căng thẳng chính trị - mối hiểm hoạ tiềm tàng của nền hoà bình châu Âu. Chính trong bối cảnh đó, nhu cầu hợp tác và liên kết chặt chẽ, toàn diện giữa các quốc gia Tây Âu trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Chỉ bằng con đường hợp tác hoà bình, các nước Tây Âu mới giải quyết được những khó khăn chồng chất sau chiến tranh, phát triển nội lực và tăng thế cạnh tranh với bên ngoài. Chưa bao giờ các quốc gia Tây Âu lại ý thức rõ ràng và cấp bách về vấn đề một cộng đồng chung đến như vậy. Và một yêu cầu tất yếu, hết sức cần thiết được đặt ra là phải thành lập được một tổ chức quyền lực siêu quốc gia có sứ mệnh điều hành phối hợp các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia sao cho hiệu quả. Đòi hỏi khách quan đó đã trở thành nguồn gốc của sự liên kết giữa các quốc gia Tây Âu - mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển Tây Âu nói riêng cũng như của cả châu Âu nói chung.

Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành của EU là bản “Tuyên bố Schuman” của Bộ trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09 tháng 05 năm 1950 với đề nghị đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của Cộng hoà liên bang Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu Âu khác cùng tham gia. Sau đó, Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC), một tổ chức tiền thân của EU ngày nay được ký kết. Từ đó đến nay, sự liên kết giữa các quốc gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với đỉnh cao là một Liên minh châu Âu như chúng ta thấy ngày nay và trong tương lai có thể sẽ đạt tới cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại hơn 50 năm hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu, có thể thấy quá trình này gắn liến với các hiệp ước chủ yếu sau đây (từ năm 1951 đến nay):

- Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (ECSC) (European Coal and Steel Community hay viết tắt là ECSC) nhằm phối hợp quản lý giá cả, sản xuất và điều kiện lao động liên quan đến các tài nguyên than và thép là những mặt hang hang đầu vào thiết yếu cho sản xuất quân nhu- những yếu tố góp phần gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới được ký ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức, Italy, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg, nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính là thép và than trên toàn lãnh thổ châu Âu. Hiệp ước này đã chứa đựng ý đồ của các nhà sáng lập ECSC là gây dựng nền tảng cho việc nhất thể hoá kinh tế châu Âu.

- Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/31957 với sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Mục đích thành lập EURATOM là để thống nhất việc quản lý ngành năng lượng nguyên tử của 6 nước thành viên; trong khi đó EEC ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường liên kết kinh tế giữa 6 nước này, tạo ra một tập hợp sức mạnh kinh tế tổng hợp dưới hình thưc một “thị trường chung” mà lao động hàng hoá được tự do di chuyển như một thị trường nội địa. Hiệp ước Rome là kết quả của những thành tựu đáng khích lệ về kinh tế và chính trị mà ECSC đã đạt được. Và có thể nói, hiệp ước này đã mở ra một hướng liên kết giữa các quốc gia châu Âu đánh giá sự ra đời của một liên minh kinh tế thật sự Cộng đồng kinh tế châu Âu (EE).

- Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1965 giữa các nước của 3 nước Cộng đồng này dưới tên gọi: Cộng đồng châu Âu. Đây là văn bản xác nhận một cấp độ nhất thể hóa kinh tế cao hơn giữa các quốc gia này thể hiện việc thành lập một thị trường thống nhất; trong đó, ngoài việc hàng hoá, lao động và vốn đầu tư được tự do di chuyển, hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng được rỡ bỏ, hệ thống thuế quan và chính sách thương mại chung được thành lập, một số chính sách đối với các lĩnh vực kinh tế khác cũng được thống nhất nhằm tăng sức cạnh tranh với các khối kinh tế bên ngoài, tiến tới một liên minh chặt chẽ về chính trị.

- Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu được ký ngày 07/2/1992 tại Maastricht – Hà Lan, với sự nhất trí hoàn toàn của nguyên thu quốc gia các nước thành viên (lúc này, số thành viên của EC là 12 nước bao gồm: Pháp, Đức, Bỉ, Italy, Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan mạch, Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) nhằm thành lập một “không gian châu Âu” thống nhất về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và các chính sách về xã hội. Như vậy, EU đã được bổ sung thêm các nội dung liên kết mới (an ninh, chính trị , đối ngoại) mà các tổ chức tiền thân của nó chưa có, để đạt được các mục tiêu toàn diện hơn như: duy trì bảo vệ hoà bình và thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất về kinh tế vì lợi ích chung của các dân tộc châu Âu thông qua việc tạo ra một khu vực kinh tế rộng lớn, một khu vực thị trường tự do, thống nhất, tạo điều kiện cho việc thống nhất về chính trị và hài hoà về xã hội trong liên minh. Với mục tiêu như vậy, EU đã thực sự bước vào một thời kỳ mới, tồn tại như một thực thể thống nhất, hay những nói đúng hơn là đóng vai trò như một “Đại quốc gia” ở châu Âu, một “Ngôi nhà chung châu Âu”.

- Hiệp ước Amsterdam được ký vào ngày 2/10/1997 bởi các nguyên thủ của 15 nước thành viên (năm 1995 EU đã kết nạp thêm 3 nước thành viên nữa là: Thuỵ Điển, Phần Lan, Áo). hiệp ước này được hình thành trên cơ sở sửa đổi hiệp ước Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây dựng một liên minh kinh tế - tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực. Hiệp ước này đã tao cơ sở pháp lý để đồng EU đồng tiền chung của các nước châu Âu chính thức ra đời với tư cách đầy đủ của một đồng tiền thực thụ và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1999 trong phạm vi 11 nước (EU-11): Đức, Pháp, Ailen, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italy, Luxembourg, Phần Lan. Theo kế hoạch đã được định trước, đúng ngày 1/1/2002, các đồng Euro bằng giấy và bằng kim loại đã chính thức đi vào lưu thông tiền tệ song hành với các đồng bản tệ và bắt đầu giai đoạn đổi tiền. Và kể từ ngày 1/7/2002, các đồng bản tệ của tất cả 11 nước thuộc EU -11 đã kết thúc lịch sử tồn tại của mình, vĩnh viễn rút khỏi lưu thông, chính thức nhường chỗ hoàn toàn cho đồng Eurro đang là đồng tiền chung, duy nhất lưu hành trong tất cả các quan hệ kinh tế - xã hội các những nước thành viên. Một “Ngôi nhà chung châu Âu” đã hình thành.

- Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới và gồm các vấn đề :

+ Cải cách thể chế: đổi mới thành phần Uỷ ban châu Âu (Uỷ ban châu Âu sẽ có không quá 27 uỷ viên, trong đó mỗi nước sẽ có một uỷ viên, được chỉ định theo nguyên tắc luân phiên, sẽ thực hiện từ năm 2005. Chủ tịch uỷ ban sẽ được trao thêm một số thẩm quyền mới, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương và việc lựa chọn chủ tịch EC sẽ được quyết định theo nguyên tắc đa số đủ thẩm quyền; phân định số phiếu bầu trong Hội đồng Bộ trưởng, cụ thể: Pháp, Đức, Anh, Italy có cùng số phiếu bầu là 29, Tây Ban Nha có phiếu bầu là 27 phiếu, Hà Lan có phiếu bầu là 13 phiếu, Bỉ có phiếu bầu là 12 phiếu, và các nước còn lại sẽ có từ 3 đến 7 phiếu. Tổng số phiếu bầu sẽ là 345 khi số thành viên EU là 25 nước(1) nguyên tắc bỏ phiếu theo đa số đủ thẩm quyền: hiện đang áp dụng cho 80% quyết định, 20% vấn đề còn lại các nước vẫn giữ quyền phủ quyết của minh, đặc biệt đối với những vấn đề nhạy cảm, động chạm đến lợi ích quốc gia).

+ Tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu. Số ghế nhiều nhất là 99 (tăng 12 so với số cũ). Pháp, Anh và Italy chỉ còn 74 (giảm 13 so với số cũ). tổng số nghị sĩ tương lai sẽ là 738.

+ Về chính sách an ninh và quốc phòng: EU thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF) từ năm 2003, bao gồm 60.000 quân với 100 tầu chiến và 400 máy bay trong thời gian 60 ngày. RRF sẽ có cơ cấu điều hành thường trực gồm uỷ ban quân sự bà Bộ tham mưu đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của EU.

Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là cả một quá trình phát triển phức tạp với các hình thức liên kết kinh tế quốc tế được phát triển chặt chẽ, toàn diện và hoàn toàn mới về vật chất. Và cho đến nay, sau nhiều nỗ lực thiết thực của EU, tiến trình nhất thể hoá châu Âu đã đạt được các kết quả rất khả quan trên nhiều lĩnh vực

+ Về an ninh: EU lấy NATO và liên minh phòng thủ Tây Âu (WCU) làm hai trụ cột chính. Tuy nhiên, EU đang cố gắng tạo cho mình “một cánh tay quân sự” bên cạnh “cánh tay kinh tế” với bản sắc riêng của mình, hạn chế sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ.

+ Về chính trị: đang diễn ra quá trình chính trị hoá các nhân tố kinh tế, anh ninh, nghĩa là kết hợp các phương tiện kinh tế và quân sự nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế. Trong nội khối đã và đang diễn ra quá trình hợp nhất và thống nhất các đường biên giới quốc gia nhằm tăng cường quyền lực và quản lý chung. Còn đối với bên ngoài, EU đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực bằng các hiệp định song phương và đa phương.

+ Về xã hội: về cở bản, các nước thành viên đang áp dụng một chính sách chung về lao động, bảo hiểm, môi trường, năng lượng, giáo dục, y tế, (tuy nhiên, vẫn còn một số lĩnh vực chưa thống nhất).

+ Về kinh tế: GDP của EU năm 1988 đạt 8.482 tỷ USD, được xem là lớn nhất thế giới (NAFTA: 8.150 tỷ USD, ASEAN: 845 tỷ USD), năm 2000 đạt 9004 tỷ USD, năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm 1995-2000 gần 2,2. Đây là khu vực kinh tế đạt trình độ cao về kỹ thuật, công nghệ, thiết bị, máy móc; đặc biệt là về cơ khí, năng lượng, nguyên tử, dầu khí, hoá chất, dệt may, điện tử, công nghiệp vũ trụ và vũ khí.

+ Về thương mại: EU là trung tâm thương mại lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, với doanh số 1.527,5 tỷ USD năm 1997, trong đó 50% là buôn bán giữa các nước thành viên. Năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng hoá của EU đạt 2.441,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hoá nội khối đạt 1.502,2 tỷ USD, xuất khẩu hàng hoá ngoại khối đạt 939 tỷ USD. Về nhập khẩu hàng hoá: năm 2002, EU đạt 2.437 tỷ USD, trong đó nhập khẩu nội khối đạt 1.506 tỷ và ngoại khối đạt 931 tỷ USD. Như vậy, thương mại của EU phần lớn phát triển mạnh trong nội bộ khối nhờ khối tác động của chính sách nhất thể hoá kinh tế khu vực. Ngày 1/5/2004, EU có 25 nước thành viên sau khi kết nạp thêm 10 quốc gia mới. Với việc mở rộng lần thứ 5 này. EU trở thành một khối kinh tế và thị trường lớn nhất thế giới, với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vị chiếm khoảng 21,9% kim ngạch nhập khẩu của tập đoàn thế giới.

Ở Tây Âu, việc chuyển sang chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia, mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, hình thành sự liên hiệp quốc tế của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước, hay còn gọi là nhất thể hóa quốc tế. Nửa cuối những năm 50, đã xuất hiện hai hình thức liên hợp quốc tế của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước: khối thị trường chung và khối mậu dịch tự do. Hình thức liên hiệp cao nhất là khối thị trường chung, thành lập ngày 25-3-1957 bằng việc kí kết hiệp ước Rôma giữa 6 nước: Pháp, CHLB Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lucxembua. Sau khi ra đời (năm 1957), EEC đã có nhiều nổ lực trong tiến trình nhất thể hóa Châu Âu. Bước vào thập niên 60, nền kinh tế Châu Âu đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhờ việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan trong trao đổi thương mại nội khối. Bên cạnh đó, nhằm xóa cảnh nghèo đói ở các quốc gia thành viên, các nước Châu Âu tiến tới thỏa thuận kiểm soát, bổ trợ sản xuất và tiêu thụ nông sản trong khối. Kết quả, Châu Âu trở thành lục địa xuất siêu về nông sản. Tháng 1-1973, cộng đồng Châu Âu tiến hành việc  mở rộng khối lần đầu tiên với việc kết nạp thêm Anh, Ailen và Đan Mạch, đưa số thành viên lên 9 nước. Song,  tăng trưởng kinh tế của Châu Âu không được thuận lợi do chiến tranh Trung Đông lần thứ ba ( tháng 10-1973), dẫn đến cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn thế giới. Trong thập niên 70, cộng đồng hướng sự quan tâm tới các chính sách vùng, thúc đẩy kinh tế ở vùng kém phát triển, nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thông qua các dự án hỗ trợ việc làm, cải thiện kết cấu hạ tầng. Năm 1979 nghị viện Châu Âu lần đầu tiên áp dụng chế độ bầu cử trực tiếp : vai trò của nghị viện được tăng cường đối với các vụ việc trong nội bộ liên minh.

Bước vào thập niên 80, thế giới chứng kiến một Châu Âu đầy biến động. Năm 1981, Hi Lạp trở thành thành viên thứ 10 của EEC, 5 năm sau đến lượt Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ( năm 1986). Tháng 2-1986, các nước EEC kí vào  « Định ước duy nhất » sẽ có hiệu lực từ ngày 1-7-1987. Văn kiện hướng tới một chính sách đối ngoại chung của EEC. Mục tiêu này đòi hỏi các nước thành viên phải tiến hành thường xuyên các cuộc tham khảo ý kiến, phối hợp chính sách, cộng tác chặt chẽ hơn trong những vấn đề an ninh nhằm góp phần đáng kể vào sự phát triển một Châu Âu có diện mạo riêng trong lĩnh vực đối ngoại. Với mục tiêu như vậy, sự liên kết các nước trong khối vượt khỏi phạm vi kinh tế, mở rộng sang lĩnh vực chính trị và an ninh. Vì vậy, kể từ đây EEC  trở thành cộng đồng Châu Âu (EC), tập hợp dưới lá cờ xanh với 12 ngôi sao vàng nối kết thành vòng tròn.

            Như vậy sau hơn 30 năm thành lập, EEC rồi sau đó là EC đã đạt được những bước tiến dài trong quá trình nhất thể hóa Châu Âu. Tuy nhiên, cho đến đầu thập niên 90, EC vẫn chưa xây dựng được một không gian kinh tế chung cho cả Châu Âu. Các thể chế do EC lập ra chỉ mới dừng lại ở tính chất liên chính phủ, chứ chưa đạt đến vai trò siêu quốc gia, EC vẫn chưa tạo được sự thống nhất trong việc hoạch định chính sách hay đề ra các biện pháp đối phó với vấn đề quốc tế phức tạp. Do vậy, EC vẫn chưa phát huy hết tiềm năng của mình. Tuy nhiên vào cuối thập niên 80- đầu thập niên 90, một loạt các biến cố xảy ra ở các nước Đông Âu và Liên Xô dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tan rã của liên bang Xô Viết- góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình nhất thể hóa Châu Âu. Trước mắt, những biến chuyển ở Đông Âu và Liên Xô và sự ra đời của nước Đức thống nhất đã tạo cơ hội để các nước Tây Âu liên kết thành EC xác định lại chỗ đứng riêng trên trường quốc tế. Để thúc đẩy nhanh hơn việc thành lập một Châu Âu thống nhất, ngày 22-10-1991, EC kí với EFTA một hiệp ước thành lập « Không gian kinh tế Châu Âu » trong năm 1993.

Nhờ những thành công đạt được về kinh tế lẫn chính trị, EC tiếp tục mở rộng các quá trình liên kết, hợp tác rộng rãi giữa các nước và các dân tộc. Đỉnh cao của quá trình thống nhất Châu Âu được thể hiện qua cuộc họp thượng đỉnh cao các nước thuộc EC tổ chức tại Maaxtrich( Hà Lan) ngày 9 và ngày 10-12-1991. Hội nghị thông qua hiệp ước Maaxtrich cho ra đời liên minh Châu Âu (EU) trên cơ sở EC. Hiệp ước Maaxtrich quyết định thống nhất chính sách ngoại giao và tiền tệ, định ra đơn vị tiền tệ chung Châu Âu( ECU) làm cơ sở cho thống nhất tiền tệ ở Châu Âu. Đây là một dấu ấn lịch sử đáng ghi nhớ. Mặc dù các nhà lãnh đạo thuộc các nước EC muốn đến ngày 1-1-1993, họ sẽ thiết kế nên một Châu Âu không những thống nhất về kinh tế, tiền tệ mà thành hẳn một liên minh chính trị, qua đó có thể cạnh tranh với Mỹ trong tương lai. Những người dân Đan Mạch đã bỏ phiếu phủ quyết hiệp ước Maaxtrich. Quốc hội Anh cũng kéo dài việc phê chuẩn Hiệp ước này. Hiệp ước Maaxtrich bị gác lại, hệ thống tiền tệ Châu Âu bị xáo trộn.Các nước Đức và Pháp công khai chỉ trích nước Anh. Đồng bảng Anh và đồng Lira của Italia rút khỏi cơ chế Châu Âu. Điều đó phản ánh sự yếu kém của liên kết Châu Âu và chứng tỏ con đường đi tới việc hình thành  một thị trường lớn và liên minh chính trị Châu Âu còn gặp nhiều khó khăn. Mỹ cũng phản ứng với hiệp ước này, vì cho rằng những chủ trương này chủ yếu nhằm vào Mỹ và cuối cùng sẽ đánh bật Mỹ ra khỏi Châu Âu. Để đối phó lại, một mặt Mỹ thúc đẩy xây dựng khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ, mặt khác sử dụng sách lược li gián EC. Trong chừng mực nào đó, Mỹ đã góp phần làm chậm quá trình phê chuẩn hiệp ước Maaxtrich. Vượt qua nhiều khó khăn và bất đồng chính kiến, các nhà lãnh đạo Tây Âu vui mừng đón nhận quyết định của CHLB Đức, quốc gia cuối cùng trong 12 nước thuộc EC- phê chuẩn và tham gia hiệp ước này. Tháng 10-1993 nước Bỉ đương kim chủ tịch EC tuyên bố triệu tập hội nghị Maaxtrich. Và ngày 1-11-1993, hiệp ước Maaxtrich có hiệu lực. EC gồm 12 nước chuyển thành EU, đặt nền móng hướng tới một « hợp chúng quốc Châu Âu ».

Năm 1989 Áo xin gia nhập EC và bắt đầu quá trình liên kết với EC. Trong cuộc trưng cầu ý dân ở nước này, 66,4% cử tri đồng ý Áo gia nhập EU và hội đồng Châu Âu quyết định tiếp nhận Áo là thành viên chính thức của EU bắt đầu từ ngày 1-1-1995. Chính phủ các nước Phần Lan và Thụy Điển cũng quyết định gia nhập EU. Những cuộc trưng cầu ý dân ở các nước này năm 1994 đạt được kết quả tích cực, với tỷ lệ tương ứng là 57% và 52% số cử tri đồng ý gia nhập EU. Hội đồng Châu Âu cũng quyết định tiếp nhận Phần Lan và Thụy Điển làm thành viên chính thức của EU bắt đầu ngày 1-1-1995. Như vậy với lần mở cửa thất bại, bắt đầu từ ngày 1-1-1995, EU bước vào thời kì phát triển mới gồm 15 thành viên. Điều đó cho thấy bước tiến quan trọng trong tiến trình hòa nhập Châu Âu và ảnh hưởng của EU không chỉ đến tình hình kinh tế và chính trị của từng nước, mà còn đến cả Châu Âu.

Sau đó các nước Đông Âu cũng tham gia vào quá trình liên kết Châu Âu, đồng thời mở rộng thị trường chung để tạo ra chất xúc tác bổ sung cho sự tăng trưởng kinh tế. sáu nước Đông Âu gồm : Bungari, Ba Lan, Hunggari, cộng hòa Ctech, Slovakia và Romania xúc tiến gia nhập EU với vai trò là thành viên liên hiệp. Các nước này chấp nhận chiến lược do EU đề ra đối với việc mở rộng EU sang các nước Đông Âu. Các nước EU bảo đảmcho các nước Đông Âu rằng họ sẽ tiến hành các cuộc trao đổi thường xuyên để giúp đỡ các nước này nhanh chóng gia nhập EU. Mở đầu là hội nghị cấp cao 15 nước EU và 6 nước Đông Âu tại Đức vào tháng 12-1994, kết thúc với việc xác định những vấn đề ưu tiên trong giai đoạn ngắn hạn và trung hạn của EU.

 

Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Liên minh châu Âu

Nhằm thực hiện những mục tiêu chung đã được đề ra trong các hiệp ước, EU đã xây dựng cho mình một hệ thống thể chế “ siêu quốc gia” để điều hành, giám sát quá trình liên kết của các quốc gia thành viên. Hệ thống thể chế này bao gồm các cơ quan chính sau:

- Hội đồng châu Âu: bao gồm những người đứng đầu nhà những nước, chính phủ các nước thành viên và chủ tịch Uỷ ban châu Âu. Hội đồng châu Âu có nhiệm vụ xác định những định hướng lớn của EU và đóng vai trò như mọi diễn đàn chính trị.

- Hội đồng bộ trưởng: bao gồm Bộ trưởng các nước thành viên. Đây là cơ quan lập pháp tối cao của EU, chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của Liên minh, đưa ra các quy chế, chỉ thị mang tính bắt buộc đối với các thành viên, đồng thời cũng chịu trách nhiệm về hợp tác liên minh chính phủ. , chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của EU, bao gồm các bộ trưởng đại diện cho các thành viên. Các nước luân phiên làm chủ tịch với nhiệm kì 6 tháng. Giúp việc cho hội đồng có ủy ban đại diện thường trực và có ban tổng thư kí. Từ năm 1975, người đứng đầu nhà nước , hoặc chính phủ, các ngoại trưởng, chủ tịch và phó chủ tịch ủy ban Châu Âu có các cuộc họp thường kì để bàn quyết định những vấn đề lớn của EU. Cơ chế này gọi là hội đồng Châu Âu hay hội nghị thượng đỉnh EU.

- Uỷ ban châu Âu: là cơ quan hành pháp của EU, gồm 20 uỷ viên được uỷ nhiệm trên cơ sở sự thoả thuận của các nước thành viên và phải được Quốc hội châu Âu tán thành. Uỷ ban châu Âu đề xuất lên Hội đồng Bộ trưởng các biện pháp phát triển chính sách chung và theo dõi việc tôn trọng các hiệp ước, nhiệm kì 5 năm do các chính phủ nhất trí cử và chỉ bị bãi miễn với sự nhất trí của nghị viên Châu Âu. Dưới các ủy viên là các tổng vụ trưởng chuyên trách từng vấn đề, từng khu vực.

- Nghị viện châu Âu: là cơ quan lập pháp của EU, bao gồm 626 nhiệm kì 5 năm nghị sĩ của các nước thành viên và được chia ra thành 18 uỷ ban. Nghị viện châu Âu có chức năng thông qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, cùng hội đồng châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực. Nghị viện cũng có quyền bãi miễn uỷ viên Uỷ viên ban châu Âu, được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Trong nghị viện các nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị khác nhau, không theo quốc tịch. Chức năng chính là thông qua ngân sách, cùng hội đồng Châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực, kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, có quyền bãi miễn các chức vụ ủy viên ủy ban Châu Âu.

- Toà án châu Âu: đặt trụ sơ tại Luxembourg, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sự do các chính phủ thoả thuận bổ nhiệm, do các chính phủ thỏa thuận bổ nhiệm, nhiệm kì 6 năm.Toà án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức của uỷ ban châu âu, văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU. Tòa án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức của ủy ban Châu Âu, văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU.

- Toà kiểm toán châu Âu: có chức năng kiểm tra các khoản tài chính của EU để đảm bảo tính hợp pháp của các khoản thu chi, đồng thời phối hợp với các cơ quan thể chế khác của EU để thực hiện các hoạt động có liên quan đến tài chính của mình.

- Uỷ ban kinh tế và xã hội: là cơ quan đại diện cho lợi ích của các nhóm người trong xã hội, có nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ cho Hội động Bộ trưởng và Uỷ ban châu Âu.

- Uỷ ban về khu vực: có chức năng tư vấn cho các cơ quan thể chế của EU về các vấn đề liên quan tới lợi ích của các đơn vị địa phương và khu vực.

- Ngân hàng Đầu tư châu Âu: đảm bảo trách những hiệm cấp phát tín dụng cho các tổ chức nhà nước, các doanh nghiệp của các nước thành viên trên cơ sở nguồn vốn của các nước thành viên đóng góp hoặc vốn vay quốc tế.


Liên minh Châu Âu dựa trên 3 trụ cột chính

+ Liên minh kinh tế và tiền tệ, hiệp ước Maaxtrich dự tính thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ chung. Quá trình thực hiện sẽ trải qua 3 giai đoạn, bắt đầu ngày 1-7-1990 tới ngày 1-1- 1999, giải tán viện tiền tệ Châu Âu, lập ngân hàng trung ương Châu Âu( ECB- European Central Bank) và kết thúc bằng việc ban hành một đồng tiền chung. Đồng tiền này chủ yếu được lưu hành sau khi các quốc gia đã hoàn tất một số quy định do liên minh đề ra. Ngay sau khi thành lập, đồng tiền ECU được đưa vào sử dụng. Điều kiện để tham gia vào liên minh kinh tế - tiền tệ ( còn gọi là những tiêu chí hội nhập) : lạm phát thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3 nước có mức lạm phát thấp nhất, thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP, nợ nhà nước dưới 60% GDP và biên độ dao động tỉ giá giữa các đồng tiền ổn định trong 2 năm theo cơ chế chuyển đổi( ERM), lãi suất ( tính theo lãi suất công trái thời hạn từ 10 năm trở lên) không quá 2% so với nước trung bình của 3 nước có lãi suất thấp nhất.

+ Hướng đến một chính sách đối ngoại và an ninh chung, mục tiêu của EU không chỉ là một tổ chức kinh tế và tài chính, mà còn mong muốn đảm nhận một vai trò chính trị trên trường quốc tế ngang tầm với sức mạnh kinh tế của nó. Đến thời điểm thích hợp, EU sẽ đem lại sự hợp tác  an ninh chung, thay vị trí hiện nay của NATO. Các thỏa ước được kí tại hội nghị về an ninh và hợp tác Châu Âu diễn ra ở Helainki năm 1975 tạo nền tảng pháp lí cho tiến trình kể trên.

+ Tăng cường cộng tác trong lĩnh vực cảnh sát và tư pháp, quy mô của quan hệ cộng tác này rất rộng vì bao gồm chính sách tị nạn, nhập cư, đấu tranh chống khủng bố, chống ma túy và chống buôn lậu quốc tế, cộng tác tư pháp, thuế quan và cảnh sát. Ngày 19-6-1990, thoả ước Schengen được thỏa thuận xong. Đến 27-11-1990, 6 nước : Pháp, Đức, Luxembua, Bỉ, Hà Lan, Italia kí hiệp ước Schengen. Hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha kí ngày 25-6-1991 và 26-3-1995, hiệp ước có hiệu lực ở 7 nước thành viên. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên. 14/15 nước thành viên EU đã tham gia khu vực schengen ( trừ Anh). Thỏa ước này xóa bỏ việc kiểm tra cảnh sát trong biên giới nội địa của các nước thuộc EU, tăng cường tính hiệu quả trong công tác kiểm tra biên giới bên ngoài, kể cả đơn xin tị nạn, cũng như việc lập hồ sơ những kẻ bị tình nghi hay bị truy nã.

 

Về kinh tế, chính trị, xã hội và đối ngoại của EU

Trải qua không ít những thăng trầm trong gần một nửa cuối thế kỷ XX, giờ đây châu Âu đang dần lấy lại vị trí “ trung tâm thế giới” của mình. Đặc biệt, trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước EU đã thực sự khẳng định được vị thế là một trung tâm kinh tế hùng mạnh của thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể và tương đối ổn định. Tăng trưởng GDP của EU trong năm 1996 là 1,6%, năm 1997 là 2,5%, năm 1988 là 2,7%, năm 1999 là 2,0%, và cho đến năm 2000 thì cả châu Âu “thở phào nhẹ nhõm”với tốc độ tăng GDP là 3%, cao nhất từ cuối thập ký 80 cho tới năm cuối cùng của thế kỷ XX. Năm 1988 khi cơn bão tả chính làm nghiêng ngả nền kinh tế thế giới thì EU – khu vực ít bị ảnh hưởng nhất của khủng hoảng – vẫn tiếp tục quá trình phát triển kinh tế của mình.

Theo các nhà kinh tế, sự ổn định kinh tế của EU được xem là một trong những nhân tố chính giúp cho nền kinh tế thế giới tránh được nguy cơ suy thoái toàn cầu. Năm 1999 tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU có chiều hướng giảm do sự sụt giá của đồng Euro và sản xuất công nghiệp giảm sút. Nhưng chỉ với riêng sự suy giảm này cũng chưa thể đưa ra một kết luận tiêu cực về nền kinh tế EU, bởi ngày cả khi tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, lạm phát của EU trong năm 1999 vẫn ở mức 1,1%- mức thấp chưa từng có trong lịch sử, tỉ lệ thất nghiệp giảm lần đầu tiên trong thập kỷ 90 từ hơn 10% xuống còn 9,4% trong năm 1999 và thâm hụt ngân sách của các nước thành viên cũng ở mức thấp: 0,5% - 0,7% GDP. Tình hình kinh tế EU trong năm 1999 đã được cải thiện và phát triển tích cực. Năm 2000, GDP của EU cao hơn năm 1999 gần 1,1%, tăng trưởng tốc độ 3% các năm 2001-2002 do tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp (cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ - Anh phát động ở Afganixtan, chiến tranh chống Iraq) đã tạo nguy cơ chưa từng có chia rẽ nội bộ EU và ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế châu Âu. Khoảng cách giữa các quốc gia trong khối ngày càng thu hẹp. Trong số các quốc gia thuộc EU thì các nước nhỏ Bắc Âu tỏ ra tiến mạnh nhất, nước Đức khổng lồ thường bị tụt hậu trong mấy năm gần đây cũng đã bắt kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả khối. Chỉ có Italy, mặc dù hơi yếu về khả năng cạnh tranh cũng đã vươn lên với tốc độ tăng trưởng 2,6 % trong năm 2000, tuy nhiên vẫn bị coi là mức thấp nhất trong khối. Theo uỷ ban châu Âu, kinh tế EU vẫn đang phát triển khả quan. Các chuyên gia kinh tế của IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế) và OECD (Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế) cũng rất lạc quan vào sự tiếp tục phát triển kinh tế của EU bởi Ngân hàng trung ương châu Âu tiếp tục kiểm soát chặt chẽ mức cấp tiền và duy trì mức lãi xuất khá ổn định ở mức 4,5%. Theo dự báo của OECD, trong năm 2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế EU vẫn sẽ ổn định ở mức trên dưới 2,6%, tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm đáng kể từ 8,8% năm 2003. Các nhà kinh tế cho rằng “EU tăng trưởng chậm nhưng chắc” và vẫn tin tưởng khẳng định xu hướng đi lên của kinh tế EU trong những năm tới 2010 và tầm nhìn tới 2020.

Một trong nhưng nội dung quan trọng của hiệp ước Maaxtrich kí năm 1992 là việc thành lập Liên minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu( EMU), trong đó có việc đưa vào sử dụng đồng tiền chung duy nhất của các nước thành viên. Hội nghị thượng đỉnh Dublin vào tháng 12-1996 đề xướng hiến chương về sự ổn định và được chính thức thông qua tại hội nghị Amtesdam ( Hà Lan) tháng 6-1997 với nội dung cơ bản là hợp pháp hóa 5 tiêu chuẩn hội nhập, tổ chức chỉ đạo xây dựng các quy tắc, cơ chế kiểm soát, triển khai các chính sách tài chính-ngân sách nhà nước của các nước thành viên. Đến năm 1998, trừ Hi Lạp còn 14 nước khác thuộc EU đều đạt các tiêu chuẩn trên. Do đó ngày 2-4-1998, nguyên thủ 15 quốc gia EU hợp nhất tại Bỉ, chính thức quyết định sự ra đời của EURO( tên gọi mới thay cho đồng ECU). Ngày 9-5-1998, nghị viện Châu Âu chính thức ra phê chuẩn gia nhập EMU. Ngày 1-1-1999, đồng EURO chính thức ra đời với tư cách là một đồng tiền thực, chung và duy nhất của khối EMU. Theo kế hoạch từ ngày 1-1-1999 đến ngày 1-1-2002, là giai đoạn chuyển tiếp với đặc điểm chính là mỗi nước đều có hai đồng tiền chính thức, đó là đồng bản tệ đang lưu hành và đồng  EURO mới ban hành. Từ ngày 1-1-2002 việc đổi tiền diễn ra trong vòng 6 tháng và kết thúc vào ngày 1-7-2002, sau đó các đồng bản tệ sẽ hoàn toàn rút khỏi lưu thông. Việc đồng EURO ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch tài chính giữa các nước thành viên và điều quan trọng hơn là nó phần nào phá bỏ vị trí độc tôn trong giao dịch tiền tệ quốc tế của đồng USD.

 Đồng tiền chung Euro được tạo ra nhằm mục đích xây dựng một thị trường duy nhất. Ý nghĩa của hành động này bao gồm việc thúc đẩy các quyền tự do di chuyển, xóa bỏ vấn đề trao đổi ngoại tệ, cải thiện sự minh bạch về giá cả hàng hóa và dịch vụ, thiết lập một thị trường tài chính thống nhất, ổn định giá cả và lãi suất thấp và nhất là hạn chế những tác động tiêu cực do khối lượng giao dịch thương mại nội đại khổng lồ trong phạm vi Liên minh châu Âu. Đồng tiền chung euro cũng chính là biểu tượng chính trị cho sự hòa hợp và phát triển kinh tế liên tục

Về kinh tế, liên minh Châu Âu thiết lập được thị trường chung từ năm 1993, trao đổi giữa các nước trong liên minh trở nên thuận tiện vì các hàng rào thuế quan đã được bỏ dở. Trong những năm qua, vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á làm cho nền kinh tế nhiều nước bị rung chuyển, tốc độ tăng trưởng GDP của EU vẫn tiếp tục được duy trì với tốc độ tương đối cao. Cho đến nay giá trị thương mại của EU chiếm tới 20% giá trị thương mại của thế giới và GDP của EU chiếm tới 20% GDP của toàn thế giới. ngày 2-10-1997, tại Amtesdam ( Hà Lan) các nước thành viên EU kí hiệp ước Amtesdam, qua đó sửa đổi, bổ sung trong một số lĩnh vực chính : những quyền cơ bản- không phân biệt đối xử, tư pháp và đối nội, chính sách xã hội và việc làm, chính sách đối ngoại và an ninh chung. Tiếp đó vào tháng 12-2000, các nước thành viên kí hiệp ước Nice, tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của nghị viện Châu Âu, thành lập lực lượng phản ứng nhanh( RRF). Lực lượng phản ứng nhanh của EU trong tương lai sẽ hành động một cách độc lập : với quân đội riêng biệt( quân do các nước thành viên đóng góp), phương tiện riêng( máy bay và tàu chiến…) và cả một người chỉ huy riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, để thực hiện được mục tiêu thì EU còn rất nhiều việc phải làm để lực lượng này có vai trò quyết định trong việc giải quyết xung đột trong khu vực. EU phải giải quyết vấn đề có quá nhiều lực lượng quân đội cũng tồn tại : quy chế nhà nước trung lập của Áo, Thụy Sỹ có còn không khi EU có chính sách phòng thủ và an ninh chung, nhưng mục tiêu của các nước không như nhau. Rất có thể từ những mục tiêu này mà nảy sinh những mâu thuẫn nhất định.

 Dân số : Ngày 1 /1/2011, tổng dân số của 27 quốc gia thành viên thuộc Liên minh châu Âu dự tính đạt 501.259.840 người. Tuy Liên minh châu Âu chỉ chiếm 3% diện tích đất liền, dân số liên minh này chiếm đến 7,3% dân số thế giới. Mật độ dân số lên đến 115,9 người/km ² đã khiến cho Liên minh châu Âu trở thành một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới.

Về đối ngoại,theo tinh thần của hiệp ước Maaxtrich, chính sách đối ngoại và an ninh chung ( CFSP)  là hệ thống hợp tác giữa toàn thể các nước thành viên EU trong các vấn đề chính trị quốc tế. Đối với các chính phủ mỗi nước thành viên, CFSP được xem là công cụ bảo vệ lợi ích quốc gia trong thời đại phụ thuộc lẫn nhau. Hợp tác và liên kết trong lĩnh vực chính trị sẽ giúp các nước EU  có tiếng nói thống nhất và có điều kiện phản ứng nhanh, xử lí năng động trước các vấn đề quốc tế và khu vực. Trong những năm qua với việc ra đời của CFSP, EU thiết lập được quan hệ ngoại giao với 135 nước và EU cũng tăng cường sự hiện diện của mình trong nhiều tổ chức quốc tế. EU cũng đã củng cố và cải thiện được quan hệ với Mĩ và tổ chức đối thoại có hiệu quả với Nhật Bản. Quan hệ giữa EU và Nhật Bản tương đối tốt đẹp trên cơ sở cạnh tranh và bổ sung cho nhau vì mục tiêu tạo đối trọng với Mĩ. Trong quan hệ với ASEAN, EU xác lập và thúc đẩy mạnh mẽ các quan hệ hợp tác chính trị bên cạnh các quan hệ hợp tác kinh tế truyền thống. Chẳng hạn, cả EU và ASEAN  có quan điểm giống nhau về nhiều vấn đề như tầm quan trọng của hiệp ước, không phổ biến vũ khí hạt nhân, tình hình ở biển Đông và bán đảo Triều Tiên…Ngoài ra, EU cũng tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ an ninh khu vực Châu Âu và giữ gìn hòa bình thế giới. ngay sau khi khẳng định CFSP. Các nước EU tham gia trực tiếp vào việc giải quyết vấn đề ở Nam Tư ( cũ). Ngoài Đông Âu, EU cũng tích cực tham gia các công việc của quốc tế ở khu vực Trung Đông, Nam Phi, Rwanda, Checnya..

 

Những khó khăn và thách thức của EU trong tương lai

Khó khăn lớn nhất là hiện nay chi phí cho quốc phòng của EU đang giảm sút. Từ năm 1992 đến nay, chi phí cho quốc phòng của EU giảm 22%, riêng năm 1999 là 7%. Tình hình này ở mỗi nước cũng khác nhau : ngân sách dành cho quốc phòng của Anh và Pháp lần lượt là 2,7,và 2,8% GDP, trong khi trung bình con số này ở các nước khác dao động từ 1-1,5% GDP, ngân sách dành cho quốc phòng của Đức hiện nay chiếm 1,5% thay vì 3,4% GDP cách đây 10 năm. Từ năm 1992 đến năm 1996, ngân sách quốc phòng của EU giảm 43%. Nếu so sánh một cách đơn giản giữa Châu Âu và Mĩ trong lĩnh vực này, chi phí quốc phòng của Mĩ lớn hơn nhiều. Trong năm 1997, chi phí quốc phòng của 5 nước có tiềm lực quân sự  lớn ở Châu Âu chỉ chiếm 1,8% GDP, trong khi con số này của Mĩ là 3,38% GDP. Liên quan đến những thiết bị quốc phòng ChâuÂu chi cho lĩnh vực này chỉ bằng 1/2 so với Mĩ : năm 1999, Mĩ chi 48,5 tỉ USD, 54 tỉ USD trong năm 2000 và dự tính sẽ chi 61 tỉ USD vào năm 2001. Như vậy, chúng ta sẽ thấy rõ mâu thuẫn giữa mục tiêu và thực tế của EU. Để xây dựng được lực lượng phản ứng nhanh, EU sẽ phải làm thế nào trong khi tình trạng ngân sách dành cho quốc phòng liên tục bị cắt giảm. Trước mắt, để giải quyết được vấn đề này, có lẽ EU sẽ phải dựa vào hợp tác giữa các tổ hợp quân sự của các nước và dựa vào sự đóng góp những phương tiện sẵn có của các nước. Nhưng về lâu dài, tình hình ngân sách dành cho quốc phòng cần phải được cải thiện.

Những thành công trong suốt 50 năm tồn tại và phát triển cho thấy EU là một điển hình về liên kết khu vực. Trong tương lai, EU không chỉ bằng lòng với sức mạnh kinh tế của mình mà còn muốn tăng cường vai trò chính trị để trở thành một cực trong thế giới đa cực như EU mong muốn. Để đạt được điều này, chắc chắn EU sẽ phải từng bước khắc phục và giải quyết những khó khăn và thách thức : vấn đề tương quan giữa «  sức mạnh Châu Âu » với « không gian Châu Âu », vấn đề cải cách thể chế và đặc biệt là vấn đề xây dựng lực lượng phản ứng nhanh của Châu Âu, từng bước tiến tới xây dựng chính sách an ninh và phòng thủ chung. Có thể nói, quá trình ra đời và phát triển của EU trong thập niên 90 là cả một quá trình đấu tranh gay gắt, một quá trình tranh chấp và thỏa hiệp. Song nhìn chung, các nước thành viên đều thống nhất mục tiêu đề ra và cam kết trong các hiệp ước. Tất nhiên, để đạt được, điều không thể tránh khỏi là khi tiến hành thực hiện các chính sách đều đụng chạm đến lợi ích quốc gia và chủ quyền dân tộc của mỗi nước.

EU thành tổ chức kinh tế - chính trị lớn nhất hành tinh, chiếm ¼ GDP thế giới. Hiện nay, EU có số dân 340 triệu người, gấp rưỡi Mĩ và gấp đôi Nhật. Tổng sản phẩm xã hội vượt quá 5,5 ngàn tỉ đôla (lớn hơn Mĩ, Mĩ có 5,2 ngàn đôla). EU chiếm 1/3 tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản, gần 50% hàng xuất khẩu và hơn 50% nguồn dự trữ chất lỏng.

Kết quả

Như vậy, con đường dẫn tới một “châu Âu thống nhất” còn là quá trình lâu dài với hàng loạt những khó  khăn cần phải giải quyết trong khi tình hình ở châu Âu và thế giới diễn ra phức tạp. Nhiều vấn đề nan giải xuất hiện ngay sau khi xoá bỏ kiểm soát biên giới giữa các nước là tệ buôn bán ma tuý, hoạt động của các nhóm maphia, vấn đề di cư và nhập cư….Đồng thời, những vấn đề rắc rối giữa lợi ích dân tộc và lợi ích chung của cả khối đã, đang và sẽ còn đặt ra trước các nước thành viên EU.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét