18/10/21

Mỹ trong khủng hoảng kinh tế (1929-1933).

 


Ban đầu, các nhà hoạch định chính sách cố gắng khôi phục lòng tin cho thị trường bằng các bài phát biểu trấn an người dân, tổng thống Herbert Hoover làm yên lòng người Mỹ rằng kinh tế nước này vẫn tiến triển tốt. Mọi thứ chỉ thay đổi sau khi tổng thống Franklin D Roosevelt lên làm tổng thống năm 1932, chính phủ can thiệp vào để khởi động lại chương trình trợ cấp thất nghiệp cho người dân, ổn định thị trường bằng cách hạn chế sản xuất, khuyến khích phát triển chương trình an sinh xã hội. Tuy nhiên, chính quyền của ông Roosevelt không có nhiều thành công trông hồi phục tăng trưởng kinh tế và lòng tin người tiêu dùng vẫn ở mức thấp.

Cuộc Đại Khủng Hoảng kéo dài bất chấp một loạt các biện pháp mới nhằm giảm nhẹ thiệt hại cho người dân, cụ thể là cung cấp thêm việc làm mới, hỗ trợ hay bảo vệ các khoản thế chấp. Mãi đến đầu Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi chính phủ Mỹ áp dụng lý thuyết kinh tế học Keynes với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, nền kinh tế mới hồi phục. Sản lượng sản xuất tăng gấp đôi trong chiến tranh, tình trạng thất nghiệp biến mất khi phụ nữ và người da đen được kêu gọi tham gia vào lực lượng lao động thay cho hàng triệu người đã tham gia vào quân ngũ. Cuộc khủng hoảng kéo dài trong 4 năm, đến năm 1933 thì chấm dứt.

 

 

NƯỚC MỸ TỪ 1929 – 1933

Sau chấn động nghiêm trọng ngày 24/10/1929, giá cổ phiếu hạ chưa từng có ở thị trường chứng khoáng. Ở thị trường chứng khoáng NiuOóc  mà người Mỹ gọi là “ ngày thứ 5 đen tối” thì ngày 29/10/1929 là ngày hoảng loạn chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán. Ở thị trường chứng khoán Niu Oóc, giá một cổ phiếu được coi là bảo đảm nhất đã sụt 80% so với tháng 9.Vào cuối tháng,các cổ đông đã mất 15 tỷ đôla và giá trị các loại chứng khoáng đã giảm 40 tỷ đô la. Hàng triệu người đã mất sạch số tiền mà họ tiết kiệm cả đời. Vòng xoáy của suy thoái tiếp diễn không gì cCác nhà máy liên tiếp đóng cửa, hàng ngàn ngân hàng theo nhau phá sản.

Hàng triệu người thất nghiệp không còn phương kế sinh sống, hàng ngàn người mất nhà cửa vì không trả được tiền cầm cố.Nhà nước không thu được thuế hàng ngàn người mất nhà cửa vì không trả được tiền cầm cố..Nhà nước không thu được thuế, công chức và giáo viên không được trả lương.Đến năm 1932,cuộc khủng hoảng kinh tế đạt tới đỉnh cao nhất. Tổng sản lượng công nghiệp chỉ đạt 53,85 năm 1929,sản xuất than bị đẩy lùi lại mức năm 1904, gang lùi lại mức năm 1896, thép bằng mức 1901. Công nghiệp đúc thép chỉ sử dụng 16% công suất, 115.000 xí nghiệp công thương nghiệp, 58 công ty đường sắt bị phá sản, 10 vạn ngân hàng (40% tổng số ngân hàng Mỹ ) đóng cửa. Cuộc khủng hoảng trong nông nghiệp trở nên trầm trọng vì nông sản bị mất giá. Trong những năm 1929-1930 đã có tới 75% dân trại bị phá sản.Diện tích gieo trồng ở các bang miền Nam bị thu hẹp từ 43 triệu acoro năm 1929, còn 36 triệu acoro năm 1932. Tình hình nội thương và ngoại thương đều giảm sút nghiêm trọng. Gía trị hàng xuất khẩu từ 5 tỷ 241 triệu giảm xuống 2,4 tỷ nhập khẩu tù 4 tỷ 399 triệu giảm còn 1 tỷ 322 triệu. Thu nhập quốc dân giảm một nửa nạn thất nghiệp lên tới 12 triệu 1932. Đứng trước nạn thất nghiệp và nghèo đói lan tràn,phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ bùng nổ và phát triển. Những năm 1929-1934 số người tham gia bãi công lên tới 3,5 triệu người trong đó là những cuộc đấu tranh không có tổ chức.Một hình thức mới của cuộc đấu tranh là phong trào có tổ chức của những người thất nghiệp, theo sáng kiến của Đảng cộng sản, họ lập ra hội đồng những người thất nghiệp, tổ chức các cuộc biểu tình quần chúng và “các cuộc đi bộ vì đói “đầu tiên có tính chất toàn quốc của hàng chục vạn người thất nghiệp ở Oasinhton. Tiếp theo là cuộc đi bộ của cựu chiến binh thời kì chiến tranh thế giới thứ nhất, kéo đến Oasinhton đòi nhà trắng phải cung cấp lương bổng mà đáng ra họ phải được hưởng. Chính quyền Huvo nđã cho quân đội,  cảnh sát giải tán các cuộc đấu tranh và bắt bớ hàng loạt người tham gia.Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1930, Đảng cộng hòa đã mất nhiều ghế và Đảng dân chủ chiếm đa số. Đến cuộc bầu cử tổng thống 1932, Đảng cộng hòa lại đưa Huvo ra ứng cử, còn Đảng dân chủ cử Rudoven. Khi tranh cử , Rudoven hứa sẽ thực hiện một “chính sách mới.”(New Deal).

Rudơven (Franklin Roosevelt)  đưa ra một “ván bài mới” với xương sống là luật phục hưng công nghiệp quốc gia (NIRA), quy định nghiêm khắc sự điều tiết của Nhà nước đối với sản xuất và tiêu thụ, buộc các nhà công nghiệp phải hạn chế và điều chỉnh sự sản xuất của mình và chấp hành luật “cạnh tranh thật thà”. NIRA cũng cho phép công nhân lập ra các tổ chức công đoàn để giải quyết tranh chấp với chủ xí nghiệp.

Về nông nghiệp, ban hành luật điều chỉnh nông nghiệp (AAA). Luật này khuyến khích việc giảm sản xuất các nông phẩm quá thừa so với nhu cầu thị trường và nâng cao giá nông phẩm theo luật định.

Chính quyền cũng ban hành luật khẩn cấp về ngân hàng để cứu các nhà ngân hàng đang phá sản bằng sự giúp đỡ của nhà nước về tài chính. Để các ngân hàng có tiền trả nợ nhân dân tăng thêm sức mua của quân chúng đã bị cạn kiệt.

Như vậy, nếu Huvơ lấy tiết kiệm chi tiêu làm chính, thì Rudơven giảm cung tăng cầu là chủ yếu, tạo ra sức hút ban đầu để cho sản xuất và tiêu dùng trở lại bình thường.

Chính sách ván bài mới tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước nhưng đồng thời có sự nhượng bộ đối với quần chúng lao động nhằm xoa dịu mâu thuẫn, căn bệnh vốn có của CNTB trong cơn nguy khốn. Lúc đầu, các nhà tư sản Mĩ coi chính sách đó như “chiếc phao cứu mạng”nhưng sau khi khủng hoảng qua khỏi cuối 1933, các phần tử phản động cực đoan quay qua chống chính sách của Rudơven. Rudơven phải đương đầu với sự kháng cự mạnh mẽ của tư bản độc quyền. Tòa án tối cao Liên bang đã phủ quyết “ván bài mới” cho rằng nó vi phạm Hiến pháp Mĩ, nhưng một bộ phận giai cấp tư sản tự do, quần chúng nhân dân ủng hộ ông. Nhờ đó ông được bầu lại 1936, 1940, 1944, điều chưa từng thấy trong lịch sử nước Mĩ.

Về đối ngoại, năm 1933, Rudơve đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, chấm dứt chính sách mù quáng của các tổng thống tiền nhiệm, thi hành chính sách “láng giềng thân thiện” với các nươc Mĩ Latinh. Tuy nhiên, đối với sự xâm lược của chủ nghĩa phát xít, đường lối của chính phủ Mĩ về cơ bản phù hợp với chính sách của Anh, Pháp – chính sách dung túng cho những hành động ăn cướp của khối phát xít bất chấp ý chí của hàng triệu người Mĩ và nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Nguyên nhân xảy ra suy thoái diễn ra nặng nề và kéo dài nhất trong lịch sử từ trước đến nay ở Mĩ:

Thứ nhất, khả năng sản xuất của đất nước đã vượt quá khả năng tiêu thụ thực tế, một phần lớn thu nhập quốc dân thuộc về một số ít người. Lợi nhuận thu nhập của công ti tăng (76% trong thời gian 1922-1929), trong khi công nhân trong các xí nghiệp và nông dân không được nhận phần xứng đáng của họ trong thu nhập quốc dân, không có khả năng mua được hàng hóa do chính họ sản xuất.

Thứ hai, chính sách của chính phủ về thuế biểu nợ của chiến tranh đã làm cho hàng hóa vào Mĩ không thể bán ra nước ngoài, đặc biệt những nông sản lâu nay vẫn xuất khẩu: lúa, mì, bông, thuốc lá.

Thứ ba, việc cấp tín dụng quá dễ dàng đã tạo ra sự lạm dụng. Người ta mua chứng khoán không phải là để tạo ra một khoản đầu tư ổn định mà chủ yếu là để đầu cơ (tức là để bán lại kiếm lời một khoản thời gian ngắn sau đó).Nợ của chính phủ va  của tư nhân cuối cùng đã vượt qua con số 100 tỉ đola.

Thứ tư, sự cơ giới hóa được đẩy mạnh đã làm giảm nhu cầu về thợ không lành nghề và dẩy họ  vào con đường thất nghiệp. Thất nghiệp gia tăng thì sức mua giảm. Chính phủ không có chính sách đúng dắn để thủ tiêu nạn thất nghiệp, do vậy không thể giảm được nạn nghèo đói trong nhân dân.

Nhìn chung, các nhà kinh tế Mĩ đều kết luận rằng: sự giàu có của nước Mĩ là có thật nhưng đã chứa sẵn những “bệnh tật” bên trong, mà chủ yếu là do sự phân phối không công bằng. Đó là nguyên nhân chính làm sụp đỗ “lâu đài” phồn vinh trong những năm 20 của nước Mĩ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét