Hội
nghị hoà bình Versaillès (1919-1920)
Hòa ước Versaillès năm 1919
là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) giữa nước Đức và
các quốc gia thuộc phe Hiệp Ước. Nội dung Hòa ước được soạn thảo bởi Georges Clemenceau, Thủ tướng nước Pháp,
cùng với Hoa Kỳ
và Vương quốc Anh – là
ba nước thắng trận.
Tham
dự hội nghị có đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm cường quốc tham gia điều
khiển hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền
quyết định hội nghị là Tổng thống Mĩ Uynxơn (Wilson), Thủ tướng Anh Lôi Giooc
(Lloyd George) và Thủ tướng Pháp Clêmăngxô (Clemenceau). Đại biểu của các nước
bại trận cũng có mặt để k í vào các hoà ước do các nước thắng trận quyết định.
Hội nghị Versaillès kéo dài gần 2 năm và diễn
ra hết sức gay go, quyết liệt vì các nước cường quốc thắng trận đều có những
mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế
giới sau chiến tranh.
Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn
nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của
Pháp ở lục địa châu Âu.
Nhưng
Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối
phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ
châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng
hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống Mĩ
Uynxơn đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại thế
giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ(1). Với những lời lẽ bóng bảy, bề
ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương trình 14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa
vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật
Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng
sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ không phải bằng con đường bành trướng
lãnh thổ như các cường quốc khác. Chương trình 14 điểm của Uynxơn được các nước
coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Véc xai.
Các
nước Italia, Nhật Bản cũng đưa ra những
tham vọng của họ. Nhật Bản đòi được thay thế Đức nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông
của Trung Quốc, dự định chiếm vùng viễn Đông của nước Nga Xô Viết, mở rộng ảnh
hưởng ở khu vực châu á - Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống
vùng Địa Trung Hải và vùng Bancăng. Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có
những yêu cầu mở rộng lãnh thổ của mình.
Sau
gần nửa năm tranh cãi với 3 lần có nguy cơ tan vỡ vì bất đồng gay gắt về quyền
lợi, cuối cùng các văn kiện của Hội nghị Versaillès được kí kết.Đây là một Hòa ước có áp đặt những điều khoản khe khắt lên nước Đức bại
trận. Nó có thể được so sánh với Hiệp định Tilsit mà Hoàng đế
Pháp là Napoléon Bonaparte áp đặt lên Vương quốc Phổ vào năm 1807, hoặc là Hiệp định Brest-Litovsk do
Đế chế Đức áp đặt lên nước Nga
Xô Viết vào năm 1918.
Cuối cùng, sau khi lên nắm quyền thì Lãnh tụ nước Đức Quốc Xã Adolf Hitler đã xóa bỏ Hòa ước này vào thập niên 1930.
Nội dung
Hòa ước quy định Đức phải trả lại cho Pháp miền Alsace-Lorraine, một
mảnh đất cho Bỉ, một
mảnh tương tự ở Schleswig cho Đan Mạch –
tùy kết quả một cuộc trưng cầu ý dân – mà Thủ tướng Otto von Bismarck
đã chiếm trong thế kỷ trước sau khi đánh bại Đan Mạch. Hòa ước trả lại một số
mảnh đất cho Ba Lan,
vài nơi tùy kết quả cuộc trưng cầu ý dân, mà Đức đã chiếm trong sự phân chia
của Ba Lan. Đây là một trong những điều khoản khiến dân Đức tức giận nhất,
không chỉ vì họ bất mãn thấy tách rời miền Đông Phổ khỏi nước Đức bằng một hành
lang cho Ba Lan đường thông ra biển, mà còn vì họ ghét bỏ người Ba Lan mà họ
xem như giống người hạ cấp. Người Đức cũng giận dữ không kém khi thấy hòa ước
đòi hỏi họ phải chấp nhận trách nhiệm đã khởi động cuộc chiến và đòi họ phải
giao cựu hoàng Wilhelm II chi phe Hiệp ước, người bị kết án đã
khởi động chiến tranh và khoảng 800 tội phạm chiến tranh.
Số tiền bồi thường chiến
tranh sẽ được định sau, nhưng khoản đầu gồm 5 tỉ đô-la
phải được trả trong thời gian 1919–1921,
và có thể giao vài loại hiện vật – than, tàu, gỗ, bò... – thay cho
tiền bồi thường.
Điều khoản nặng nhất là
Hòa ước Versailles vô hình trung giải giới nước Đức với mục đích, ít nhất trong
một thời gian, ngăn chặn bước đường bá quyền của Đức ở châu Âu.
Hòa ước giới hạn Đức có tối đa quân số 100.000 người tình nguyện tức không được
bắt thi hành nghĩa vụ quân sự, cấm sở hữu máy bay và xe tăng. Bộ Tổng Tham mưu
phải bị dẹp bỏ. Hải quân bị giảm thành lực lượng tượng trưng, bị cấm chế tạo
tàu ngầm hoặc tàu trọng tải trên 10.000 tấn.
Phản ứng
Nội dung của Hòa ước
được công bố ở thủ đô Berlin
ngày 7 tháng 5
năm 1919. Chính phủ lâm thời chống đối mạnh mẽ việc chấp nhận bản Hòa
ước Versailles "Vô lý", theo tên gọi chế giễu bây giờ. Đại đa số nhân
dân Đức, dù cho thiên về cánh Hữu hoặc cánh Tả, đều hậu thuẫn chính phủ. Ngày 9 tháng 5,
đại biểu Đức tại Versailles viết thư cho Georges Clemenceau rằng một hòa ước như thế là
“không thể chấp nhận được đối với bất cứ quốc gia nào.”
Chính phủ lâm thời hỏi ý
kiến của Quân đội: Nếu từ chối ký vào hòa ước, liệu Quân đội có thể chống cự
cuộc tấn công của Đồng minh hay không? Tổng thống lâm thời Friedrich Ebert đặt câu
hỏi này cho Bộ Tư lệnh Tối cao. Ngày 17 tháng 6,
Thống chế Paul von Hindenburg cho ý kiến:
Nếu chiến tranh lại
xảy ra, chúng ta có thể chinh phục tỉnh Posen ở Ba Lan
và bảo vệ đường biên giới của chúng ta về phía đông. Tuy nhiên, về phía tây
chúng ta khó mà chống đỡ cuộc tấn công mạnh mẽ xét qua quân số và khả năng
của họ đánh gọng kềm chúng ta. Nói chung, chiến dịch khó mà thành công, nhưng
với tư cách là một chiến binh tôi không tránh khỏi ý nghĩ là thà thua trong
danh dự còn hơn chấp nhận một nền hòa bình nhục nhã.
|
Lời kết luận của một vị
Tổng Tham mưu trưởng được sùng kính là đúng theo truyền thống của quân đội Đức,
nhưng có vẻ không được trung thực. Nhân dân Đức không biết Hindenburg đã nghĩ
rằng nếu cố chống cự Đồng minh thì không những vô vọng, mà còn có thể khiến cho
cấp chỉ huy quân đội quý giá bị tiêu diệt và từ đó nước Đức cũng bị hủy diệt
theo.
Qua việc này, Quân đội
Đức bị chê trách là đã quá khôn lanh và hèn nhát đã thúc đẩy chính phủ lâm thời
ký hiệp ước đình chiến, và sau đó kết án chính phủ là quá yếu đuối, làm tổn hại
đến quyền lợi của Đức.
Bây giờ, Đồng minh đang
đòi hỏi Đức trả lời dứt khoát. Ngày 16 tháng 6,
một ngày trước khi Hindenburg gửi văn bản trả lời cho Ebert, Đồng minh ra tối
hậu thư: phải chấp nhận hòa ước chậm nhất là ngày 24 tháng 6,
nếu không thỏa ước đình chiến sẽ bị chấm dứt và lực lượng Đồng minh sẽ "có
biện pháp cần thiết để áp chế các điều khoản".
Một lần nữa, Ebert kêu
gọi đến Quân đội: Nếu Bộ Tư lệnh Tối cao nghĩ có cơ may nhỏ nhoi nào đó để
chống cự được Đồng minh, Ebert hứa đảm bảo Quốc hội sẽ bác bỏ hòa ước. Nhưng
ông phải có ngay câu trả lời. Thời hạn chót của tối hậu thư, 24 tháng 6,
đã đến. Nội các họp vào lúc 16:30 giờ để lấy quyết định cuối cùng.
Hindenburg và Tướng Wilhelm Groener, nhân vật
số 2 trong Quân đội, hội ý với nhau. Vị Thống chế già nua, mệt mỏi nói: “Ông
cũng như tôi biết rõ rằng không thể kháng cự bằng quân sự.” Nhưng một lần nữa,
ông không có can đảm nói sự thật với Tổng thống Lâm thời của nền Cộng hòa. Ông
bảo Groener: “Ông có thể trả lời cho Tổng thống cũng tốt như tôi thôi.”
Và một lần nữa, vị tướng
can đảm Groener nhận trách nhiệm cuối cùng đáng lẽ phải thuộc về vị Thống chế,
dù ông biết rằng ông bị đưa ra làm vật tế thần cho quân đội. Ông gọi cho Tổng
thống nói rõ về quan điểm của Bộ Tư lệnh Tối cao.
Phê chuẩn và ký kết
Cảm thấy nhẹ nhõm vì các
cấp chỉ huy Quân đội đã nhận trách nhiệm – sự kiện mà nhiều người chẳng
bao lâu quên bẵng – Quốc hội với đa số lớn chấp nhận việc ký kết hòa ước.
Quyết định được thông báo cho Clemenceau chỉ mười chín phút sau thời hạn chót
của tối hậu thư. Bốn ngày sau, 28 tháng 6
năm 1919,
Hòa ước được ký kết trong Lâu đài Versailles ở Paris. Đây chính là nơi
năm xưa Đế chế Đức được tuyên bố thiết lập vào năm 1871 sau khi đại thắng
Pháp trong cuộc Chiến tranh Pháp - Đức (1870 - 1871). Điều này thể hiện tinh
thần báo thù của người Pháp đối với Đức kể từ sau chiến bại năm 1871.
Hòa ước Versailess được
phê chuẩn bởi Hội Quốc liên (tiếng Pháp:
Société des Nations) ngày 10 tháng 1
năm 1920.
Riêng Hoa Kỳ không phê chuẩn Hòa ước Versailles, mà chủ trương đàm phán riêng
rẽ với Đức.
Hậu quả
Thống chế
Pháp là Ferdinand Foch phản đối Clemenceau và không
bằng lòng với những điều khoản của Hòa ước này với nước Đức. Ông suýt nữa thì
không cam chịu Hòa ước này. Foch cho rằng Hòa ước này quá mềm dẻo, không bắc
những cây cầu lớn qua sông Rhine. Đồng thời, ông ta cũng nhận thấy những điềm
báo về sự thất bại của Hòa ước đó. Vào ngày 21 tháng 6,
Foch cho rằng người Đức vẫn tiếp tục "xảo trá" khi ông ta chứng kiến
cảnh họ tự hủy hoại hạm đội của mình không rơi vào tay giặc. Chưa kể, Foch còn
trở nên nổi cáu khi quần chúng nhân dân Đức đốt cháy mọi lá cờ Pháp mà Quân đội Đức giành lấy được trong cuộc Chiến tranh Pháp - Đức (1870 - 1871), nhằm ngăn cản việc
trao trả những lá cờ này cho Pháp. Ông ta gửi thư cho vợ mình: "Bọn họ
nhạo báng chúng ta. Toàn thể châu Âu là một đám nhốn nháo. Ấy là công trình của
Clemenceau". Do đó, Foch từ chối làm lễ kỳ kết Hiệp ước này vào ngày
28 tháng 6 năm 1919 tại Versailles. Foch có lời tuyên bố, mà sau này càng trở
nên đúng:
Đây không phải là một
Hòa ước. Đây là một Thỏa ước ngừng bắn trong vòng 20 năm.[Ferdinad Foch]
|
”
|
Bất chấp những nỗ lực
lớn nhất của Clemenceau, Hòa ước này đã thất bại trong việc thay đổi sự bất cân
bằng chiến lược giữa nước Đức và Pháp : Đức vẫn còn đông dân hơn hẳn và có
nền công nghiệp phát triển vượt trội Pháp. Quân đội Pháp thì quá
yếu để có thể hủy diệt sức mạnh quân sự của Đức, và nhìn chung là ảnh hưởng của
Pháp trong phe Hiệp Ước rất nhỏ bé để có thể nhờ vả Đồng Minh phân tán nước
Đức. Thượng viện Hoa Kỳ từ chối phê chuẩn bản Hòa
ước này vào tháng 1 năm 1920,
và liên minh giữa Anh Quốc và Pháp bắt đầu suy sụp. Thống chế Foch trở nên chán
ghét lời đề nghị một liên minh quân sự giữa Pháp và Anh Quốc, Hoa Kỳ - cái mà
Clemenceau đặt niềm tin to lớn. Thành thử không những chiến thắng của Pháp vào
năm 1918 hoàn toàn là một chiến thắng mà Pháp đã thất bại trong việc thiết lập
một nền hòa bình lâu dài.
Quá trình hủy hoại Hòa
ước Versailles của nước Đức
Hậu quả của Hòa ước
Versailles trong nhất thời là gây bất mãn và phẫn nộ cho toàn thể nước Đức. Nó
cũng cho thấy Đồng minh kém hiểu biết về tâm lý và ngoại giao để thuyết phục
hoặc chuẩn bị tinh thần cho người Đức chấp nhận là họ phải gánh trách nhiệm đã
gây ra chiến tranh và tự nguyện bồi thường thiệt hại. Thay vào đó, người Đức
nghĩ rằng họ đã bị o ép một cách tủi nhục. Ngay trong ngày ký kết Hòa ước, tờ
báo Deutsche Zeitung đã ghi nhận :
Hôm nay tại Nhà Kính ở Versailles một Hòa ước đáng hổ thẹn đã được ký kết. Không
bao giờ tha thứ cho nó ! Chính tại nơi này, vào năm 1871 huy hoàng, Đế
chế Đức ra đời trong mọi niềm huy hoàng của mình, hôm nay danh dự của nước
Đức đã bị chôn xuống mả. Không bao giờ tha thứ cho nó ! Sẽ có sự báo thù
cho nỗi nhục năm 1919 - Tờ báo Deutsche Zeitung
|
”
|
Vào năm 1919, Tướng Hans von Seeckt
thống lĩnh Quân đội Liên bang Đức (Reichswehr) thời Cộng hòa Weimar trở nên đánh phá mạnh mẽ vào
Hòa ước Versailles. Theo Điều khoản 160 thì Bộ Tổng Tham mưu Đức bị cấm chỉ,
nhưng ông tái hiện lại Bộ Tham mưu Đức thông qua việc thành lập Bộ chỉ huy Quân đội Đức (Truppenamt).
Dù các Điều khoản 176 và 177 cấm đoán các Hàn lâm viện Chiến tranh và Học viện
đào luyện Sĩ quan, nhưng ông gầy dựng lại những tổ chức này.[10]
Vào năm 1922, nước Đức ký kết Hiệp định Rapallo với Liên bang Xô Viết. Dưới danh nghĩa là tái
lập quan hệ ngoại giao, thỏa thuận thương mại và xóa bỏ đòi hỏi chiến phí của
hai bên, Hiệp định Rapallo cho phép chiến sĩ Quân đội Liên bang Đức đến đào
luyện cho chiến sĩ Hồng quân Liên Xô, là một sự phá vỡ hạn chế của Hòa ước
Versailles về sự mở mang khả năng quân sự của Đức. Hiệp định này đã phá tan
tành hy vọng về một liên minh Pháp - Xô, đồng thời Đức được công nhận ngầm là
một cường quốc.
Chính phủ Đức cũng dùng
những biện pháp kinh tế để tránh né Hòa ước Versailles, thí dụ như chủ ý gây
lạm phát tiền tệ đất nước. Cụ thể hơn, họ chủ trương không nộp khoản chiến phí
mà Hòa ước này yêu cầu. Đồng thời, Hoa Kỳ khẩn cấp yêu cầu Pháp trả nợ cho
mình. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng vào năm 1923 : trong tháng 1 năm ấy,
liên quân Pháp - Bỉ xâm lược
thung lũng Ruhr giàu sắt và than đá và chiếm đóng trong suốt 2 năm rưỡi. Cuối
cùng, một giải pháp chính thức được đề xuất để chấm dứt cuộc khủng hoảng :
đó là kế hoạch Dawes, quân xâm
lăng rút khỏi Ruhr. Nhưng cuộc khủng hoảng còn có ý nghĩa to lớn hơn, đó là
cuộc kháng cự bất bạo động của những người thợ mỏ Đức chống quân xâm lược Pháp
- Bỉ đã khiến cho nhân dân đồng loạt ủng hộ họ, trong khi đó, việc quân Pháp
kêu gọi họ làm việc trở lại chỉ khiến cho toàn dân Đức càng thêm căm ghét kẻ
thù xâm lăng. Sau khi khủng hoảng kết thúc, khoảng chiến phí mà Đồng Minh áp
đặt cho nước Đức trong Hòa ước Versailles bị giảm đi rất nhiều, và quan hệ Anh
- Pháp càng thêm suy sụp do nước Anh có thiện cảm với cuộc kháng cự bất bạo
động vì chính nghĩa của những người thợ mỏ Đức. [12]
Quan hệ quốc tế từ năm 1933 cho đến năm 1939 có một điểm bật là
Hòa ước Versailles bị Lãnh tụ Đức Quốc Xã là Adolf Hitler
nghiền nát thành hàng trăm mảnh. Vốn trước thời Hitler, nhân dân Đức đã căm
ghét Hòa ước đó, các nhà chính trị của Cộng hòa Weimar đã chú trọng việc phá vỡ
Hòa ước này, và khi Hitler lên nắm quyền thì nó đã suy sụp. Anh Quốc và Pháp đã
rút quân khỏi miền Rheinland, và các khoản bồi thường chiến phí đã bị xóa sổ.
Nước Mỹ càng
trở nên cô lập, trong khi Đế quốc Nhật Bản trỗi dậy mạnh mẽ ở vùng Cận Đông
làm cho Anh Quốc lo sợ.
Khi mới lên lãnh đạo
nước Đức, Hitler trở nên thận trọng trong đường lối đối ngoại. Ông chưa nghĩ
đến chuyện phá vỡ trật tự Âu châu theo Hiệp định Versailles, dù đó là mục tiêu
chính của ông và ông cũng muốn đánh gục Pháp. Thay vào đó, ông chỉ chớp lấy
thời cơ một khi nó hiện ra, thay vì chấp nhận mạo hiểm. Ông đọc bài diễn văn kể
lại sự kinh hoàng của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất vẫn còn làm cho
ông khiếp vía, và thể hiện lòng quyết tâm né tránh một cuộc chiến tranh mới.
Ông cũng luôn luôn nhấn mạnh rằng nước Đức chỉ muốn Hòa ước Versailles
"trong sạch" hơn, chứ không phải là phá bỏ nó. Dù cái Hòa ước chết
tiệt này chỉ bắt buộc nước Đức phải từ giã vũ khí, Hitler tuyên bố rằng nó bắt
mọi quốc gia phải làm điều ấy và ông rút Đức khỏi các thảo luận về giải trừ
quân bị và "Hội Quốc Liên" vào Mùa Thu năm 1933. Với lý lẽ tương tự
để chống lại Hòa ước Versailles, vào năm 1935 Lãnh tụ Hitler cho
thiết lập lực lượng Không quân (Luftwaffe)
và mở mang lực lượng Quân đội Đức gấp 5 lần quân số hiện tại, làm cho Anh Quốc
và Pháp phải tập trung vào "Mặt trận Stresa". Anh
Quốc và Pháp không thể chống nổi những thay đổi lớn lao này, làm cổ võ cho chí
khí của Hitler. Trong thỏa thuân Hải
quân Anh-Đức vào năm 1935,
Anh Quốc coi đó là thời cơ để hạn chế lực lượng Hải quân Đức Quốc xã, tuy nhiên thỏa thuận laị
là một bước tiến cho việc xóa sổ Hòa ước Versailles.
Bấy giờ Hội Quốc Liên
suy yếu trong khi nước Ý liên
minh với Đức. Trong một cuộc bỏ phiếu toàn dân, nước Đức lấy lại được vùng Saarland,
và nhận thấy các quốc gia châu Âu khác rối loạn Hitler cho quân tiến vào vùng
phi quân sự hóa Rheinland vào tháng 3
năm 1936.
Đây là một cuộc liều lĩnh táo bạo của ông, là sự chọc thủng tàn dư của Hòa ước
Versailles, là chiến thắng to lớn của Hitler, dời đi cái vùng đệm giữ nước Đức
và Pháp. Với việc phòng thủ biên giới phía Tây Đức, Hòa ước Versailles thì đổ
nát còn Pháp thì khó thể tiến quân vào nước Đức. Anh Quốc thì chẳng lo ngại gì
khi người Đức hành binh vào lãnh thổ của chính họ, còn Pháp thì bất lực, không
thể làm gì được. Không những thế, Đức can thiệp mạnh mẽ vào cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, trong khi Anh Quốc và
Pháp chẳng làm nên cái trò trống gì và điều này dẫn đến việc hình thành khối
Trục Roma - Berlin vào tháng 11
năm 1936. Thất bại của Hòa ước Versailles tuy là nguyện vọng của Hitler nhưng
đồng thời còn là mong ước của biết bao người dân Đức. Cho đến cuối năm 1937, dù
chưa được chôn cất nhưng Hòa ước này đã bị tiêu diệt, và nước Đức với sức mạnh
quân sự vô song trở thành một cường quốc trên thế giới,
cùng với Ý và Nhật Bản đe dọa đến Pháp và Anh Quốc.
Sự thành lập hội Quốc liên (League
of Nations).
Một
trong những vấn đề cơ bản đầu trên được các nước tham dự Hội nghị Versaillès nhất
trí là việc thành lập Hội Quốc liên. Công ước thành lập Hội quốc liên là văn kiện
đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó, mục đích của Hội Quốc
liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hoà bình và an ninh thế
giới”, và để thực hiện mục đích đó người ta đề ra một số nguyên tắc như: không
dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và
dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế... Ngày 10 - 1 - 1920, Hội
Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập, Hội quốc
liên có 3 tổ chức chính: Đại hội đồng (gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi
năm một lần vào tháng 9), Hội đồng thường trực (gồm 5 uỷ viên các cường quốc
Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia - sau đó còn lại 4 vì Mĩ không tham gia, và một số
uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần), Ban thư ký thường trực như một nội các
làm việc hành chính thường xuyên. Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm
có Toà án quốc tế (có trụ sở thường trực ở La Hay) và các tổ chức khác như: Tổ
chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức sức khoẻ (HO), uỷ ban người tị nạn (HCR)
... Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị,
tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các
tranh chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ
điều kiện tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là
gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện
pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành)
và bằng những biện pháp quân sự.
Sự
ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đã
đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Về danh nghĩa, Hội
Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa
chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động
của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến
thắng áp đặt tại Hội nghị Versaillès. Với "chế độ uỷ trị", Anh, Pháp
đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lã nh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì.
Các
biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội
Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình. Để Hội
Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí
chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết. Những sự kiện diễn ra
sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn
đề quốc tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ
Uynxơn nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được
thực hiện trong Hội nghị Versaillès. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến
uy tín và sức mạnh của tổ chức này.
Hoà ước Versaillès với Đức
Hoà
ước Versaillès với Đức kí ngày 28 - 6 - 1919, văn kiện quan trọng nhất của hệ thống
hoà ước Versaillès, đã quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng định nước
Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về “tội ác gây chiến tranh”, do đó phải trả
lại cho Pháp hai tỉnh Andat và Loren (Alsace-Lorraine); nhường cho Bỉ khu ơpen
Manmơđi (Eupen Malmedy) và Môrêxnet (Moresnet); cắt cho Ba Lan vùng Pômêrani (
Pomerania) và một “hành lang chạy ra biển”; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sơlexvít
(Slesvig) ... Thành phố cảng Đăngd ích (Dantzig nay là Gơđanxcơ, Ba Lan) và đảo
Hengôlan sẽ do Hội quốc liên quản trị. Hạt Xarơ (Sarre) của Đức cũng giao cho Hội
Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây thuộc về Pháp. Sau
thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết dịnh hạt Xarơ sẽ thuộc về nước
nào (sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Xarơ đã thuộc về nước Đức). Đồng thời
toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên
và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí .
Nước
Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh
với vũ khí thông thường, không có không quân, không có hạm đội tầu ngầm và thiết
giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh (gần biên giới Pháp) và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn
sẽ do quân đội Đồng minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi
hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km sẽ trở thành khu phi
quân sự. Nước Đức còn phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận số tiền
(do Hội nghị Luân đôn th áng 4 - 1921 qui đinh) là 132 tỉ Mác vàng, trong đó trả
cho Pháp: 52% Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%... Với hoà ước này, nước Đức mất 1/8
đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần
1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của hoà ước
Versaillès đè lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Versaillès không thủ tiêu
được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này, với sự trợ giúp của Mĩ,
Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở thành một
lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong thập niên 30.
Các hoà ước khác
Cùng
với hoà ước Versaillès kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt kí kết với
các nước bại trận trong hai năm 1919 - 1920. Với hoà ước Xanh Giéc manh (Saint - Germain) kí với Áo ngày 10 - 9 -1919 và
Hoà ước Trianông (Trianon) kí với Hunggari ngày 4-6-1920, đế quốc Áo - Hung
trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: áo chỉ còn 6,5 triệu dân
với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước kia, chỉ còn lại
92.000km2 với 8 triệu dân. Mỗi nước chỉ được quyền có khoảng 30.000 quân và phải
bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc Áo - Hung cũ đã thành lập hai
quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước được mở rộng thêm đất đai từ
lãnh thổ của đế quốc áo - Hung: Rumani được thêm vùng Bucôvina (Bukovine và
Tơranxinvani (Transylvanie), Italia được thêm vùng Tơrentin và Itxtria (Trentin
- Istrie), Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galixia thuộc áo và các vùng đất
khác thuộc Đức và Nga.
Ở
bán đảo Ban căng, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc Ôttôman cũng được quyết định. Với
hoà ước Nơiy (Neuilly) kí với Bungari ngày 27-11-1919, lãnh thổ Bungari bị thu
hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới phía Tây cho
Nam Tư, cắt vùng Thơraxơ (Thrace) cho Hi Lạp (do vậy bị mất cảng Đêđêaghát
(Dédéagatch) và lối ra biển Êgiê (Egée) và cắt tỉnh Đôbrútgia (Dobroudja) cho
Rumani. Ngoài ra, Bungari phải bồi thường chiến phí là 2,25 tỉ phơ răng, phải nộp
cho các nước lán g giềng trong phe chiến thắng (Nam Tư, Hi lạp, Rumani) 37.000
gia súc lớn, 33.000 gia súc nhỏ, đồng thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống
còn không quá 20.000 người. Hoà ước Xevrơ (Sevres) với thổ Nhĩ Kì kí ngày 11 -
8 - 1920 đã chính thức xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc Ôttôman. Xiri, Libăng,
Palextin và Irắc tách khỏi thổ Nhĩ Kì và đặt dưới quyền “bảo hộ” của Anh và
Pháp. Ai cập chịu sự “bảo hộ” của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc “phạm vi
thế lực” của Anh. Phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp (trừ
Ixtambun và vùng ngoại ô). Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm
soát của một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản.
Toàn
bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Versaillès. Đây là văn bản
chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc. Trật
tự mới này đem lại lợi ích cho các cường quốc thắng trận, nhất là Anh. Anh chẳng
những mở rộng hệ thống thuộc địa đồng thời quyền bá chủ mặt biển vẫn được giữ vững.
Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi. Tuy nhiên, những điều khoản
khắt khe của Hệ thống hoà ước Versaillès đối với các nước chiến bại, nhất là Đức,
trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà còn làm tăng thêm tâm
lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh ngay từ khi hệ thống này
mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của giới cầm quyền
Mĩ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế quốc đã phải tiếp tục giải
quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp theo ở Washington.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét