10/9/17

NHẬT BẢN THỜI HIỆN ĐẠI

Chương IV
NHẬT BẢN THỜI HIỆN ĐẠI

Những cải cách sau chiến tranh (1945 - 1952).
1. Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới lần II.
-  Sau chiến tranh, Nhật Bản rơi vào tình trạng đổ nát, hoang tàn.
-  Về công nghiệp: 30% xí nghiệp, 80% tàu thuỷ, 21% nhà cửa…bị phá hủy.
-  Sản lượng công nghiệp năm 1946 giảm đến mức chưa bằng 1/3 tổng sản lượng năm 1930 và chỉ bằng 1/7 mức sản lượng năm 1941.
-  Về nông nghiệp: thiếu hụt lương thực trầm trọng, xảy ra nạn đói.
-  Lương thực bị thiếu hụt nghiêm trọng.
-  Cùng với những thiệt hại về vật chất, tổn thất về tính mạng cũng vô cùng to lớn.
-  Số người Nhật thiệt mạng trong thời kỳ chiến tranh, kể từ khi cuộc chiến Trung – Nhật nổ ra (1937) lên đến 3 triệu người.
-  Về kinh tế, nguồn năng lượng chủ yếu lúc bấy giờ của Nhật Bản là than và thủy diện đều bị giảm sút nghiêm trọng.
-  Các mỏ than đều bị tê liệt hoàn toàn, do thiếu than nên ngành đường sắt cũng bị khủng hoảng.
-  Nền kinh tế nông nghiệp của Nhật Bản cũng bị khủng hoảng do thiếu lực lượng lao động, thiết bị sản xuất và phân bón.
-  Sản xuất vụ mùa năm 1945 cũng bị thất bát nặng, sản lượng thu được chỉ bằng 2/3 so với thu nhập trung bình trước đó.
-  Thảm họa đói, rét đe dọa toàn nước Nhật, nạn lạm phát nghiêm trọng bùng nổ từ giữa năm 1945 kéo dài đến đầu năm 1949 đã khiến cho giá cả nghiêm trọng.
-  Riêng tại hai thành phố là Tokyo và Osaka có tới 60 % nhà cửa bị thiêu cháy.
-  Tài sản của nhà nước bị tổn thất 25 % so với thời kỳ trước chiến tranh.
-  Tổng số thiệt hại về vật chất của Nhật Bản lên tới 64.3 tỉ yên tức là bằng 2 lần tổng thu nhập quốc dân của Nhật Bản trong năm tài chính 1948 – 1949.
-  Tổng thiệt hại về vật chất ước tính khoảng 65 tỷ yên, gấp đôi GDP của một năm, đẩy lùi Nhật Bản khoảng 25 năm.
-  Thiệt hại về người cũng vô cùng to lớn. Số người chết và bị thương lên tới 3 triệu người.
-  Có khoảng 4 triệu người bị thất nghiệp, khoảng 7 triệu lính Nhật bị giải ngũ, về nước, khoảng 1,5 triệu người di dân trước chiến tranh cũng buộc phải về nước…làm tăng thêm đội quân thất nghiệp.
-  Trong một thời gian dài được giáo dục theo tinh thần chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sùng bái chế độ Thiên Hoàng, việc bị bại trận, chấp nhận đầu hàng và chịu sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài đã làm cho tinh thần người Nhật rơi vào tình trạng suy sụp.
Tóm lại: sau chiến tranh Nhật Bản rơi vào tình trạng suy sụp về kinh tế, khủng hoảng về xã hội và suy sụp về tinh thần.
2. Cải cách về giáo dục sau chiến tranh thế giới lần II của Nhật Bản
- Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, hiến pháp mới được công bố vào ngày 3/11/1946 để thay thế cho Hiến pháp Minh Trị được ban hành vào năm 1889.
- Theo tinh thần của Hiến pháp mới, nền giáo dục ở Nhật Bản sau chiến tranh cũng được cải cách trên rất nhiều phương diện.
- Năm 1946, một phái đoàn giáo dụng Mỹ do tiến sĩ G.D. Stoddard đã đến Nhật và và xây dựng một báo cáo về chương trình tái thiết hệ thống giáo dục ở Nhật,
-  Chấm dứt vai trò Shinto như là quốc giáo, tách Shinto ra khỏi chính trị và giáo dục.  
-  Chủ trương tách biệt những ảnh hưởng của các tôn giáo và các xu thế chính trị, dân tộc cực đoan khác ra khỏi nội dung giáo dục.
-  Xác định tư tưởng chủ đạo của giáo dục là hoà bình, chống chiến tranh.
-  Biên soạn lại toàn bộ sách giáo khoa, loại bỏ tư tưởng dân tộc cực đoan trong giáo dục.
-  Cải cách hệ thống giáo dục theo hệ thống giáo dục Mỹ 6-3-3-4 năm. Đặt mục tiêu giáo dục phổ cập bậc PTCS (9 năm).
-  Các nhà giáo dục Nhật Bản theo tư tưởng dân chủ cũng quyết tâm xây dựng một chế độ giáo dục mới khoa học và tiến bộ.
-  Những nội dung tư tưởng chủ đạo đã được thể hiện trong Bộ luật cơ bản về giáo dục.
-  Nền giáo dục mới thể hiện tính đa dạng trong cơ cấu giáo dục với nhiều loại hình trường học được thiết lập ở tất cả các cấp.
-  Nội dung chương trình được biên soạn dựa trên thực tiễn lịch sử của dân tộc vì sự tiến bộ, lợi ích quốc gia và quyền lợi của nhân dân.
-  Bộ luật chống lại chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa quân phiệt; tôn trọng các quyền cơ bản của con người và của các cá nhân.
-  Mục tiêu căn bản của giáo dục thời kỳ này là khuyến khích phát triển văn hóa, xây dựng một thế hệ những người có tri thức và tư tưởng hòa bình.
-  Các chỉ dụ của Thiên Hoàng trước đây, được coi là cơ sở để xây dựng đường lối giáo dục, đều bị bãi bỏ.
-  Những môn học căn bản trong thời chiến như “Shushin” (Tu thân) và “Kokushi” (Quốc sử) đã bị loại bỏ.
-  Thay vào đó là các môn “Shakaika” (Khoa học xã hội).
-  Luật giáo dục ban hành năm 1947 cũng quy định chế độ giáo dục theo nguyên tắc: 6 – 3 – 3 – 4.
-  Học sinh sẽ học 6 năm tiểu học, 3 năm trung học cơ sở, 3 năm trung học phổ thông và 4 năm đại học.
Chế độ giáo dục bắt buộc là 9 năm tức là học sinh buộc phải đến trường và tốt nghiệp phổ thông cơ sở.
3. Cải cách kinh tế sau chiến tranh thế giới lần II .
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, là một nước bại trận, Nhật Bản bị tàn phá nặng nề về mọi mặt.
Tổng số thiệt hại về vật chất của Nhật Bản lên tới 64,3 tỷ yên tức là bằng hai lần tổng thu nhập quốc dân của Nhật Bản trong năm tài chính 1948 – 1979.
Như vậy là toàn bộ của cải tích lũy được trong 10 năm (1935 – 1945) đã bị tiêu hủy hoàn toàn.
Những vấn đề gay gắt nhất của xã hội Nhật Bản lúc này là tình trạng thất nghiệp, thiếu nguyên liệu và lạm phát.
Về kinh tế, nguồn năng lượng chủ yếu lúc bấy giờ của Nhật Bản là than và thủy điện đều bị giảm sút nghiêm trọng.
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế mới theo nguyên tắc tự do cạnh tranh, SCAP cho rằng: việc đầu tiên là phải thủ loại bỏ tình trạng tập trung kinh tế mà trọng tâm là giải thể các Zaibatsu.
Thêm vào đó, để ngăn chặn sự phục hưng của các Zaibatsu, hơn 2.000 người có mối liên hệ với các tập đoàn tài phiệt bị trục xuất ra khỏi công ty.
Từ tháng 4 / 1947, “Luật chống độc quyền” (Dokusen Kinshi) được ban hành nhằm ngăn chặn sự phục hồi của các thế lực tài phiệt và “trở thành nguyên tắc căn bản của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh”.
Giải tán các tập đoàn tài phiệt, chủ yếu là 4 tập đoàn lớn là Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo và Yasuda.
Chia các tập đoàn này thành hàng trăm công ty nhỏ.
Loại bỏ những người của các tập đoàn tài phiệt này ra khỏi chức vụ lãnh đạo công ty.
Ban hành Luật chống độc quyền.
Cử nhiều chuyên gia tài chính hàng đầu (Joseph Dodge) sang cố vấn chống lạm phát, xây dựng nền tài chính ổn định là lành mạnh.
Ban hành đống yên mới với tỷ giá 1 USD = 360 yên.
Cắt giảm trợ cấp đối với một số xí nghiệp, nới lỏng kiểm soát thương mại.
Tiến hành cải cách ruộng đất.
Quy định chính phủ mua lại ruộng đất của địa chủ vắng mặt, bán lại cho nông dân với giá rẻ, cho vay tiền với lãi suất thấp, trả trong vòng 30 năm.
Nhờ đó mà những nông dân muốn canh tác đều có thể có ruộng đất để sản xuất.
Để giảm thiểu tiến tới xóa bỏ những đặc quyền của giai cấp địa chủ, SCAP đã thực thi những biện pháp kiên quyết để cắt giảm quy mô sở hữu đất đai của giai cấp này để loại trừ hình thức bóc lột phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân.
Cải cách ruộng đất được đánh giá là một cải cách thành công.
Nhật Bản thời phát triển cao độ (1952 - 1973)
4. Sự phát triển công nghiệp và nông nghiệp Nhật Bản trong thời kỳ 1952-1973
a. Công nghiệp
- Là lĩnh vực phát triển nhanh nhất, tốc độ bình quân hơn 20%; từ năm 1960 đến 1970 tăng lên khoảng 2,5 lần.
- Các ngành công nghiệp mũi nhọn của Nhật là điện tử gia dụng và đóng tàu.
- Trong những năm 1950 – 1960, tốc độ tăng trưởng hàng năm của công nghiệp Nhật Bản là 15.9 %, gấp 6 lần Mỹ (2.6%), hơn gấp 5 lần Anh (2.9%), xấp xỉ 3 lần Pháp (5.4%).
- Những năm 1961 – 1970, con số này của Nhật Bản là 13.5 %,
- Vào những năm 1970, công nghiệp xe hơi của Nhật chiếm vị trí đáng kể và đang vươn lên chiếm vị trí hàng đầu trong nền công nghiệp.
- Các sản phẩm của Nhật có sức cạnh tranh rất mạnh ở nước ngoài vì vừa tốt, rẻ, đẹp, ít tốn nhiên liệu.
- Đến giữa thập niên 70, chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật trong GDP dứng hang thứ hai trên thế giới (sau Mỹ)
- Các sản phẩm công nghiệp dân dụng nổi tiếng thế giới như tivi, tủ lạnh, ô tô…
- Đóng được tàu chở dầu có trọng tải trên 1 triệu tấn.
- Nhật Bản trở thành một trong bat rung tâm kinh tế - tài chính của thế giới (cùng với Mỹ và Tây Âu).
b. Nông nghiệp
- Nông nghiệp Nhật Bản phát triển theo hướng thâm canh với trình độ điện khí hoá, cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá và tăng năng suất.
- Cuối những năm 1960 đã đảm bảo được 75% lương thực. Chất lượng lương thực cao.
- Những năm 1967 – 1969, sản lượng lương thực đã đủ cung cấp cho hơn 80 % nhu cầu tiêu dùng trong nước.
- Ngành chăn nuôi phát triển nhanh hơn ngành trồng trọt.
- Ngành chăn nuôi đã giải quyết được 2/3 nhu cầu thịt sữa.
- Chăn nuôi bò thịt và bò sữa rất phát triển ở vùng Hokkaido và Kagoshima.
- Nghề đánh bắt và nuôi cá cũng phát triển vào bậc nhất thế giới.
- Người Nhật dẫn đầu thế giới về tiêu thụ cá tính theo đầu người.
- Đánh cá rất phát triển, sản lượng cá tính theo đầu người hàng năm là 86kg.
- Tổng sản lượng gạo của Nhật tăng từ 9.5 triệu tấn (năm 1950) lên 13 triệu tấn (năm 1975).


5. Sự tăng trưởng GDP của Nhật Bản trong thời kỳ 1952-1973.
- Thời kỳ 1952 – 1973 là thời kỳ Nhật Bản đạt được những bước tiến thần kỳ về kinh tế và sự ổn định về chính trị - xã hội.
- Trong thời kỳ này, các ngành kinh tế của Nhật Bản đều đạt sự tăng trưởng hết sức mau chóng.
- Năm 1955, hoàn toàn khôi phục, đạt mức trước chiến tranh.
- Trong thời kỳ này, các ngành kinh tế của Nhật Bản đều đạt được sự tăng trưởng hết sức nhanh chóng.
- Trong những năm 1950, tốc độ tăng trưởng bình quân là 7 %, mức cao nhất thế giới lúc bấy giờ.
- Từ năm 1952 đến 1958, tổng sản phẩm quốc dân đã tăng với tốc độ 6.9 % bình quân hàng năm.
- Năm 1959 tăng 10% gây sửng sốt cho các nhà kinh tế lúc bấy giờ.
- Năm 1960 là 15,4 % và suốt thập niên 1960 tăng bình quân trên 10%.
- Đó là sự tăng trưởng thần kỳ về kinh tế.
- Tốc độ cao này được duy trì suốt trong những năm 60.
- Năm 1960, Nhật vượt qua Canada.
- Năm 1965, Nhật vượt qua Pháp, Anh.
- Năm 1968, Nhật vượt qua Tây Đức.
- Sau đó trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trong hệ thống TBCN, sau Mỹ.
- Mặc dù vẫn chịu sự chi phối của những quy luật kinh tế nhưng trong thập kỷ 60, tổng sản phẩm quốc dân tăng trung bình hàng năm là 10 %.
- Trong những năm 1970, mặc dầu gặp khủng hoảng dầu lửa nhưng kinh tế Nhật vẫn đạt mức tăng trưởng trung bình trên 7%, một tỷ lệ rất cao đương thời.
- Trong những năm 1970 – 1973, tốc độ tăng trưởng của Nhật Bản giảm xuống chỉ còn 7,8 nhưng vẫn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế.
- Những lĩnh vực sản xuất then chốt của Nhật Bản đều đạt được những phát triển nhanh nhất.
- Trong những năm 1950 – 1960, tốc độ tăng trưởng hàng năm của công nghiệp Nhật Bản là 15,9 %, gấp 6 lần Mỹ (2,6 %), hơn gấp 5 lần Anh (2,9 %), xấp xỉ 3 lần Pháp (5,4 %) và gấp 2 lần Tây Đức (9,4 %).
- Những năm 1961 – 1970, con số này của Nhật Bản là 1.,5 %.
6. Nguyên nhân phát triển nhanh của kinh tế Nhật trong thời kỳ 1952-1973.
a. Nguyên nhân quốc tế
- Đây là thời kỳ mà nền kinh tế thế giới đạt mức phát triển cao.
- Sự tiến bộ của nhiều thành tựu khoa học và việc ứng dụng những thành tựu đó trong các lĩnh vực kinh tế và phát triển công nghiệp thời gian sau chiến tranh đã tạo ra động lực thúc đẩy mức tăng trưởng cao đối với nhiều quốc gia trên thế giới.
- Trong vòng 20 năm (1950 – 1970), GDP của thế giới đã tăng trung bình 5% mỗi năm.
- Từ năm 1955 đến 1970, trao đổi mậu dịch quốc tế cũng tăng 7.5 %.
- Đối với Nhật Bản, cùng với những tác động của cuộc chiến tranh Triều Tiên và tranh thủ nhập được nguồn nguyên liệu dầu thô của nước ngoài với giá hạ để phát triển công nghiệp đóng tàu, hóa dầu, hóa chất…trong nước.
- Môi trường kinh tế thế giới cũng đã có nhiều ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế Nhật Bản.
- Bước vào những năm 1960 – 1970, cuộc chiến tranh Việt Nam được coi như “Ngọn gió thần thứ hai” thổi vào nền kinh tế Nhật Bản do những nguồn lợi từ các đơn đặt hàng của Mỹ mang lại.
- Thế giới tương đối ổn định và phát triển sau chiến tranh. Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Nhật phục hồi và phát triển nhanh.
- Vào những năm 60-70, Mỹ sa lầy vào chiến tranh Việt Nam, tạo điều kiện cho kinh tế Nhật chiếm lĩnh nhiều lĩnh vực quan trong.
- Nhanh chóng tiếp thu thành tựu kỹ thuật cao của thế giới nhanh chóng phát triển kỹ thuật của Nhật.
      b. Nguyên nhân trong nước
- Bên cạnh những nhân tố quốc tế đó, thì những điều kiện chính trị, xã hội và chiến lược phát triển kinh tế trong nước cũng đồng thời là những nhân tố hết sức quan trọng đưa lại sự biến đổi lớn lao của Nhật Bản thời kỳ này.
- Trong những năm 1950 – 1970, Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế. Chính phủ Nhật Bản đã biết nắm bắt thời cơ để đưa Nhật Bản đi lên.
- Trong vòng hai thập kỷ, Nhật Bản đã tập trung phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất, tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường sản xuất và tiêu thụ của Nhật Bản ra thế giới.
- Giới chủ các công ty cùng những nhà quản lý xí nghiệp đã thiết lập được mối quan hệ mật thiết với người lao động trên cơ sở chế độ thu dụng suốt đời và trả lương theo thâm niên.
- Truyền thống văn hóa, giáo dục không ngừng phát triển và phát huy trong điều kiện xã hội mới.
- Do được Mỹ bảo trợ về an ninh nên Nhật Bản đã hạn chế được đến mức thấp nhất những chi phí dành cho quốc phòng.
- Chính trị ổn định lâu dài. Từ năm 1955, ở Nhật chỉ có một đảng cầm quyền là đảng Tự do-Dân chủ.
-  Điều đó cho phép Nhật tập trung phát triển kinh tế, kể cả phát triển những kế hoạch dài hạn.
- Con người Nhật Bản: cần cù lao động, có trình độ cao, có ý thức kỷ luật và tinh thần làm việc tập thể, coi trong yếu tố văn hoá trong phát triển kinh tế…
- Kiểu quản trị Nhật Bản: Chế độ thuê nhân công suốt đời; trả lương theo công lao, thâm niên và vai trò của nhà nước (Bộ công nghiệp và thương mại) đối với sự phát triển kinh tế.
Nhật Bản sau chiến tranh lạnh (từ năm 1989 đến nay).
7. Tình hình chính trị Nhật Bản trong những năm 1980 – 1990
- Bước vào thập lỷ 70, Đảng dân chủ tự do tiếp tục cầm quyền ở Nhật Bản.
- Một mặt, các chính phủ của LDP liên tục đề ra chiến lược kinh tế năng động để phát triển đất nước và thu được nhiều thành tựu.
- Mặt khác, trong nội bộ đảng cầm quyền cũng liên tục diễn ra tình trạng bê bối, tham nhũng, tranh giành quyền lực gây nên cục diện không ổn định trong đời sống chính trị Nhật Bản.
- Sau các vụ bê bối trong chính phủ, nội các sau đó phải đưa ra khẩu hiệu làm trong sạch chính phủ.
- Trong những năm tiếp theo, hàng chục vụ bê bối vẫn tiếp tục diễn ra khiến cho uy tín của LDp bị suy giảm nghiêm trọng.
- Trong suốt những năm 90 đảng tự do dân chủ tiếp tục nắm chính quyền, nhưng sự thống trị lâu dài của đảng này đã để lại những căn bệnh, đặc biệt bệnh bảo thủ và tham nhũng.
- Tháng 8-1993: Liên minh đối lập thắng cử và lên nắm chính quyền, lần đầu tiên sau hơn 4 thập kỷ đảng tự do dân chủ thành đảng đối lập.
- 8-1993: Chính quyền liên lập gồm bảy đảng do Hosokawa cầm đầu cũng không đáp ứng được nguyện vọng của dân chúng Nhật mà còn gây ra tình trạng bất ổn định kéo dài.
- Cuối cùng tình hình đó dẫn tới sự thay đổi giới lãnh đạo đảng tự do dân chủ.
- Một nhân vật trẻ có cá tính là Koizumi lên năm chính quyền.
- Dân chúng Nhật Bản đang hy vọng vào nội các này.
- Chính phủ mới được thành lập là kết quả của sự liên minh gồm 7 đảng.
- Nền chính trị Nhật Bản thực sự lâm vào thời kỳ khủng hoảng điển hình là vào năm 1994, có tới 3 người liên tục thay nhau giữ chức thủ tướng.
- Giờ đây, tình hình chính trị đòi hỏi chính quyền Nhật Bản không thể chỉ củng cố sự ổn định chính trị của Nhật Bản mà còn phải gánh vác sứ mệnh đưa Nhật Bản tiếp tục tiến lên trong thế kỷ mới.
- Tình hình chính trị Nhật Bản đã tác động không nhỏ đến cuộc đấu tranh của nhân dân Nhật Bản.
- Nhiều tầng lớp xã hội không chấp nhận một đường lối phục hồi của chủ nghĩa quân phiệt mà mong muốn sống hòa bình, hữu nghị với các dân tộc.
- Cuộc đấu tranh chống làm sai lệch, xóa mờ tội ác của chủ nghĩa quân phiệt Nhật đối với nhiều dân tộc Châu Á và khẳng định trách nhiệm của chính quyền Nhật Bản hiện nay là biểu hiện tiêu biểu của tinh thần đó.
- Thái độ của nhân dân Nhật Bản có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phân hóa sâu sắc các lực lượng chính trị trong nước.
- Bất cứ đảng phái nào cầm quyền cũng phải lưu ý đến thái độ của nhân dân.
- Cục diện chính trị của Nhật Bản hiện nay vẫn chưa thực sự ổn định và điều đó cũng tác động không nhỏ đến tương lai phát triển của đất nước.
8. Sự phát triển kinh tế Nhật Bản trong những năm 1980-1990
- Trong thập kỷ 80, nền kinh tế Nhật Bản tuy không đạt mức độ tăng trưởng cao như những thập kỷ 60 và 70 nhưng vẫn đạt mức độ phát triển tương đối cao và ổn định khoảng 4 % một năm.
- Nếu so sánh với các nước phương Tây thì Nhật Bản vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao gần gấp đôi và dường như “Sự thần kỳ kinh tế” của Nhật Bản vẫn tiếp diễn.
- Từ nửa sau thập kỷ 80, Nhật Bản vẫn tiếp tục tiến hành quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
- Trong một thời gian ngắn từ tháng 9 năm 1985 đến tháng 1 năm 1988, đồng yên tăng giá đột ngột lên đến mức tăng 100 % so với đồng Đôla Mỹ.
- Tỷ giá trao đổi trên thị trường quốc tế đã từ 240yên/1USD lên đến 120 yên/1USD.
- Sự tăng giá của đồng yên khiến cho hàng xuất khẩu của Nhật Bản bị ngưng trệ trên thị trường quốc tế nhưng điều đó lại khiến cho hàng nhập khẩu của các nước giành được ưu thế trên thị trường Nhật Bản do hàng Nhật có giá cao.
-  Trong những năm 90 do sự sụp đổ của nền “kinh tế bong bóng xà phòng”, kinh tế Nhật Bản ở vào tình trạng suy thoái.
-  Tốc độ phát triển hàng năm trên 1%, có năm phát triển âm.
-  Tuy vậy, tổng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản có xu hướng càng tăng.
- Thu nhập tính theo đầu người của Nhật Bản tăng nhanh do đồng yên của Nhật Bản tăng giá.
- Năm 1989, tổng sản phẩm quốc dân Nhật Bản đạt 3300 tỷ USD bằng 2/3 tổng sản phẩm quốc dân của Mỹ.
- Con số này vượt khá xa các cường quốc khác như Đức, Anh, Pháp.
- Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thì năm 1987 Nhật Bản vượt qua Mỹ, trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới sau Thụy Sỹ.
- Năm 1988 thu nhập bình quân đầu người là 28000 USD.
- Năm 1998 là 36000 USD đứng thứ nhất thế giới.
- Như vậy, người dân Nhật Bản giàu lên, nhưng kinh tế Nhật Bản có xu hướng phát triển trì trệ.
- Trong các lĩnh vực công nghiệp then chốt, Nhật Bản đứng đầu thế giới như: đóng tàu, luyện thép, ô tô, tivi màu, ngành chất bán dẫn, người máy.
- Hàm lượng khoa học kỹ thuật cao trong sản xuất của Nhật Bản chiếm tỷ lệ lớn.
- Hiện nay Nhật Bản đang tiến hành một cuộc cải cách toàn diện.
- Họ đặt ra mục tiêu là dẫn đầu thế giới về lĩnh vực kinh tế tri thức.
9. Tình hình chính trị Nhật Bản sau chiến tranh lạnh.
- Sau chiến tranh, cùng với những cải cách về kinh tế, nhằm sớm đưa Nhật Bản thoát khỏi những ảnh hưởng của chủ nghĩa quân phiệt và kiến tạo một nhà nước Nhật Bản mới phát triển theo khuynh hướng dân chủ.
- Hiến pháp mới được công bố ngày 03/11/1946 để thay thế cho Hiến pháp Minh Trị ban hành năm 1889.
- Hiến pháp này do lực lượng chiếm đóng SCAP soạn thảo và sau đó được Nghị viện Nhật Bản thông qua.
- Theo Hiến pháp mới, Nghị viện là cơ quan quyền lực tối cao.
- Nội các chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
- Thiên hoàng Nhật Bản chỉ là người đứng đầu nhà nước có tính chất tượng trưng và không có quan hệ trực tiếp đến công việc quốc gia.
- Trong bản Hiến pháp mới, nguyên tắc quyền lực của nhân dân được khẳng định.
- Hiến pháp công nhận và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của mọi công dân, quyền nam nữ bình đẳng, quyền đình công.
- Điều đặc biệt là, trong Hiến pháp năm 1946 còn có một nội dung then chốt (điều 9) đó là “Tuyên ngôn về hòa bình”. .
- Theo đó, nước Nhật tuyên bố từ bỏ chiến tranh, không có lực lượng quân đội mà chỉ duy trì một lực lượng phòng vệ với một số lực lượng hạn chế đủ để đảm bảo an ninh quốc gia.
- Nhật Bản cam kết “không duy trì hải, lục, không quân và các lực lượng chiến đấu khác, không công nhận quyền tham gia chiến tranh với bất kỳ nước nào”.
- Do những nội dung cơ bản trên mà bản Hiến pháp mới có tên gọi là “Hiến pháp hòa bình”.
- Trong suốt những năm 90 đảng tự do dân chủ tiếp tục nắm chính quyền, nhưng sự thống trị lâu dài của đảng này đã để lại những căn bệnh, đặc biệt bệnh bảo thủ và tham nhũng.
- Tháng 8-1993: Liên minh đối lập thắng cử và lên nắm chính quyền.
-  Đây là lần đầu tiên sau hơn 4 thập kỷ đảng tự do dân chủ thành đảng đối lập.
- 8-1993: Chính quyền liên lập gồm bảy đảng do Hosokawa cầm đầu cũng không đáp ứng được nguyện vọng của dân chúng Nhật mà còn gây ra tình trạng bất ổn định kéo dài.
- Nền chính trị Nhật Bản thực sự lâm vào thồi kỳ khủng hoảng điển hình là năm 1994, dó tới ba người liên tục thay nhau giữ chức thủ tướng.
- Cuối cùng tình hình đó dẫn tới sự thay đổi giới lãnh đạo đảng tự do dân chủ.
- Một nhân vật trẻ có cá tính là Koizumi lên nắm chính quyền.
- Dân chúng Nhật Bản đang hy vọng vào nội các này.
10. Chính sách đối ngoại của Nhật trong những năm gần đây.
- Về đối ngoại, do chính sách ngoại giao khôn khéo của thủ tướng Sato Eisaku, năm 1972 chính quyền Mỹ đã đồng ý trao trả lại hai quần đảo là Okinawa và Ogasawara cho Nhật Bản.
- Trong thời gian chiến tranh diễn ra ở Việt Nam, Nhật Bản đã thu được hàng tỷ đô la Mỹ thông qua những hợp đồng cung cấp nhu yếu phẩm quân sự và thiết bị, nguyên liệu chiến tranh cho Hoa Kỳ.
- Chính quyền Sato một mặt dựa vào áp lực của phong trào chống chiến tranh, chống sự can thiệp của Mỹ ở Châu Á để thuyết phục Hoa Kỳ trao trả lại các quần đảo của Nhật Bản vừa tránh cho Nhật Bản không trực tiếp tham gia vào cuộc “Chiến tranh Việt Nam”.
- Mặt khác, tranh thủ điều kiện quốc tế lúc bấy giờ, thông qua các hoạt động kinh tế và viện trợ, Nhật Bản đã thâm nhập và đầu tư mạnh mẽ vào nhiều thị trường Đông Nam Á, biến nơi đây thành địa bàn kinh doanh quan trọng của nhiều tập đoàn kinh tế Nhật Bản.
- Đến nay, đường lối đối ngoại của Nhật Bản không chỉ nhằm nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật Bản trên trường quốc tế mà còn tiếp tục duy trì chính sách ngoại giao truyền thống.
- Đó là phát huy sức mạnh kinh tế, tìm cách xâm nhập, mở rộng thị trường trên thế giới đặc biệt là tăng cường các mối quan hệ hợp tác kinh tế với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 
- Đối với khu vực Đông Nam Á, chính sách đối ngoại của Nhật Bản lần đầu tiên được thủ tướng Fukuda đưa ra một cách toàn diện vào tháng 8 / 1977.
- Sau này, chính sách đó được gọi là Học Thuyết Fukuda, trong đó đặt trọng tâm trong việc phát triển quan hệ với các nước ASEAN.
-  Chính sách của Nhật chú trọng đến các nước Đông Nam Á đặc biệt là khối ASEAN bởi đây là nơi mà Nhật Bản có nhiều mối quan hệ tryền thống.
- Trong mối quan hệ với các nước khu vực Đông Bắc Á, Nhật Bản coi trọng những mối liên hệ chặt chẽ với Hàn Quốc.
- Tuy gặp nhiều trở ngại nhưng Nhật Bản cũng đang có nhiều nỗ lực để cải thiện quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và xúc tiến việc bình thường hóa quan hệ với Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên.
- Vị trí Quốc tế của Nhật Bản ngày một tăng lên một phần không nhỏ là do sự phát triển mạnh mẽ của nên kinh tế và vì vậy lại nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa Nhật Bản với các nước đồng minh phương Tây, đặc biệt là Mỹ.
- Trong những năm gần đây, những mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với Mỹ và các nước phương Tây ngày một gay gắt.
- Tuy nhiên, những căng thẳng trong quan hệ kinh tế đó cũng không làm thay đổi mối quan hệ đồng minh chiến lược giữa hai nước trong hiện tại cũng như chiến lược phát triển tương lai.
- Tuy quan hệ của Nhật Bản với các quốc gia Tây Âu không mật thiết như quan hệ Nhật – Mỹ hay quan hệ Mỹ - Tây Âu nhưng việc vừa tăng cường quan hệ vừa giữ sự quan hệ cân bằng trong quan hệ với Mỹ và Tây Âu là nguyên tắc mà Nhật Bản chủ trương nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc đẩy mạnh quan hệ với Cộng đồng Châu Âu (EC) trước đây và Liên hợp Châu Âu (EC) hiện nay.
- Từ năm 1988, thủ tướng Nhật Bản Takeshita Noburu đề xuất sáng kiến hợp tác quốc tế với 3 nội dung cơ bản thể hiện nhiệm vụ trọng tâm của chính sách đối ngoại của Nhật Bản, đó là: 1. Hợp tác vì hòa bình thế giới; 2. Mở rộng ODA với chương trình hỗ trợ phát triển chính thức; Và 3. Tăng cường trao đổi văn hóa quốc tế.
- Vào những năm 80 - 90 khi nền kinh tế của các nước Châu Á Thái Bình Dương phát triển một cách mạnh mẽ, thì Nhật Bản có sự thay đổi cơ bản trong đường lối đối ngoại của mình đó là: nếu trước đây Nhật Bản hoàn toàn dựa vào Mỹ thì ngày nay Nhật Bản tăng cừng tính tự chủ trong ngoại giao.
- Tiếp tục duy trì quan hệ Nhật - Mỹ làm nền tảng cho chính sách đôi ngoại của Nhật Bản.
- Tuy vẫn coi quan hệ với Mỹ là nền tảng trong chính sách đối ngoại nhưng các Thủ tướng gần đây của Nhật Bản nhấn mạnh tầm quan trọng của Châu Á, trong thực tế thì Nhật Bản hết sức coi trọng các nước Châu Á trong việc hoạch định chính sách ngoại giao.

- Thứ tự ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nhật: Mỹ, Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Nam Á và Nga...

NHẬT BẢN THỜI CẬN ĐẠI

Chương III
NHẬT BẢN THỜI CẬN ĐẠI

Meiji Duy tân- Nhật Bản thành “phú quốc cường binh” (1868-1894).
1. Năm lời thề nguyện của chính quyền Meiji.
-  Đường lối chiến lược đúng đắn của chính quyền mới, đó là “độc lập quốc gia và phấn đấu từng bước tiến lên bình đẳng với các nước phương Tây”.
-  Con đường để đạt được mục tiêu đó là Fukoku Kyohei (Phú quốc cường binh).
-  Ban lãnh đạo của chính quyền mới vốn là những người đi theo đường lối Sonnojoi (Tôn vương nhượng di - ủng hộ Thiên hoàng, đánh đuổi ngoại quốc).
-  Họ cho rằng: chừng nào Nhật Bản còn chưa hùng mạnh về quân sự trên cơ sở sức mạnh kinh tế của mình thì chừng đó Nhật Bản còn chưa thể “tống cổ lũ man di” đi được.
-  Tư tưởng đó được chính quyền thể hiện trong Năm lời thề (Gokazo no goseimon: ngũ điều ngự thệ văn).
-  Tháng 03/1968, mặc dù tình hình trên toàn quốc chưa thật ổn định nhưng một hội nghị tư vấn gồm đại diện của các Han vẫn được triệu tập để chuẩn bị cho bản tuyên bố này.
-  Yuriki Mimasa và Fukuoka Takachika là những người chịu ảnh hưởng rõ rệt tư tưởng chính trị của phương Tây được giao nhiệm vụ soạn thảo.
-  Sau đó, Kido Takayoshi tham gia sửa chữa lời văn.
-  Ngày 14/03/1868, Thiên hoàng chính thức công bố trong một buổi lễ trang trọng dưới hình thức thề trước trời đất.
-  Sau khi lật đổ chính quyền Tokugawa, vào tháng 3 năm 1868, Thiên hoàng Meiji đã công bố Năm lời thề nguyện làm cương lĩnh cho việc xây dựng nước Nhật Bản mới.
-  Nội dung của cương lĩnh này là: Một là, thiết lập quốc hội, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân.
-  Hai là, tất cả mọi người phải đồng lòng hoạt động vì lợi ích quốc gia.
-  Ba là, tất cả mọi người đều được phép thể hiện nguyện vọng và phát huy tài năng.
-  Bốn là, bãi bỏ những tập quán xấu, mọi việc đều làm theo đúng pháp luật.
-  Năm là, phải thu lượm những kiến thức của thế giới để phát triển đất nước.
-  Ngay ngày hôm sau, Năm lời thề được viết vào các bảng gỗ treo lên để dân chúng biết về đường lối của chính phủ mới.
-  Dựa trên tinh thần của cương lĩnh này, chính phủ Meiji đã tiến hành hàng loạt cải cách nhằm xoá bỏ chế độ phong kiến và những tàn tích của nó, xây dựng một nước Nhật Bản mới, TBCN, phát triển và hiện đại.
-  Trên cơ sở chỉ đạo của Năm lời thề, Fukuoka và Soejima được phân công soạn thảo Seitaisho (Chính thể thư), một văn bản Hiến pháp tạm thời, định ra cơ cấu tổ chức của chính quyền mới.
-  Cơ cấu mới là sự kết hợp giữa thể chế của phương Tây - sự phân lập quyền lực theo chế độ đại nghị với hình thái chính trị mang tính quan liêu truyền thống của Nhật Bản.
Trên cơ sở đó, chế độ Dajokan (Thái chính quan) được thiết lập.
2. Cải cách chính trị - hành chính thời Meiji
- Việc thay đổi cơ cấu chính quyền mới có tính chất cách mạng đã diễn ra thuận lợi trong những năm đầu của chính quyền Minh Trị.
- Nhưng việc biến đổi xã hội như vậy lại là một vấn đề hết sức khó khăn.
- Một trong những nhiệm vụ trước tiên để xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa các giai cấp, sự cách biệt lớn giữa các đẳng cấp.
- Trong đó, việc xóa bỏ các đặc quyền phong kiến của tầng lớp võ sĩ là một công việc khó khăn và nguy hiểm hơn cả.
- Vì vậy, trong năm 1869, chính quyền đã định ra những tên gọi mới cho 4 tầng lớp là Kazoku (Hoa tộc), Shizoku (Sĩ tộc), Sotsuzoku (Tốt tộc), Heimin (Bình dân).
- Các daimyo cùng quý tộc cao cấp thuộc tầng lớp Kazoku.
- Đồng thời, nông – công – thương được gọi chung là Heimin (bình dân).
- Sotsuzoku gồm các võ sĩ lớp dưới do không còn một nghề cụ thể nên sau ít năm hầu hết cũng chuyển thành Heimin.
- Từ năm 1871, Eta và Heimin không dung nữa và họ được gộp chung vào tầng lớp Heimin, có địa vị xã hội và chức nghiệp tương tự.
- Từ tháng 9 năm 1870, Heimin được phép mang họ - một đặc quyền trước đây chỉ dành cho võ sĩ và tầng lớp quan lại.
- Họ có quyền kết hôn với Kazoku hoặc Shizoku, được tự do có nhà ở và có nghề nghiệp.
- Từ năm 1871, Kazoku và Shizoku bị tước bỏ quyền đeo kiếm.
- Nhìn chung, trong quá trình thi hành cải cách làm cho “tứ dân bình đẳng” thì tầng lớp Shizoku phải hi sinh nhiều nhất.
- Sau khi bị tước bỏ đeo kiếm, chế độ bổng lộc của họ cũng dần dần bị cắt giảm để giảm bớt gánh nặng cho nhà nước.
- Xoá bỏ chính quyền Bakufu, thiết lập chính quyền mới theo kiểu Thái chính quan.
- Năm 1871, chính phủ đã mời 56 Chihanji đang sống ở Tokyo để công bố Haihanchiken (Phế phiên tri huyện).
- Thực chất quyền lãnh đạo chính quyền mới thuộc về những người của các Han: Satsuma, Choshu, Hizen và Tosa, vì thế mà còn gọi chính quyền Hanbatsu.
-  Xoá bỏ Han, lập Ken: xoá 260 Han lập nên các đơn vị hành chính mới gồm 3 Fu và 72 Ken.
- Thực chất của biện pháp này nhằm xoá bỏ tình trạng cát cứ, tăng cường quyền lực của chính quyền TW.
- Các đơn vị hành chính cấp dưới là quận, làng hoặc phố cũng được tổ chức lại. Trong đó, làng của thời kỳ này có quy mô lớn hơn làng Nhật Bản dưới thời Edo.
3. Cải cách kinh tế và tài chính thời Meiji .
- Cùng với việc tổ chức quân đội theo chế độ mới, chính quyền đã tiến hành những cải cách kinh tế, khuyến khích phát triển sản xuất.
- Những cơ chế kinh tế mang tính chất phong kiến bị hủy bỏ để thiết lập một nền kinh tế hiện đại.
- Năm 1870, Bộ Công nghiệp được thành lập.
- Năm 1874, Bộ Nội vụ và sau đó là Bộ Tài chính ra đời với tư cách là cơ quan trung tâm quản lý các công việc trong lĩnh vực kinh tế.
- Các ngành sản xuất, nhất là ngành sản xuất tơ sợi và quản lý quân nhu được chú trọng phát triển.
- Nhiều chuyên gia ngoại quốc được mời sang để giúp đỡ trong lĩnh vực này.
- Năm 1880, Chính phủ áp dụng việc nhượng lại một số công ty quốc doanh với giá rẻ cho những nhà tư bản lớn có khả năng quản lý và các công ty dộc quyền có thế lực như Mitsui, Mitsubishi.
- Hoặc những người có giúp đỡ về tài chính, phương tiện vận tải cho chính phủ, những người thuộc về 4 Han Satsuma, Choshu, Hizen và Tosa.
- Để hộ trợ cho việc xây dựng một nền Công nghiệp hiện đại, hệ thống giao thông và thông tin liên lạc cũng được mở mang hoặc xây dựng mới.
- Cải cách ruộng đất: thủ tiêu sở hữu ruộng đất có tính chất phong kiến của tầng lớp võ sĩ.
- Năm 1873, chính phủ ra sắc lệnh thừa nhận chủ quyền thực tế về ruộng đất, có quyền mua bán ruộng đất, thống nhất thu thuế trong cả nước, quy định đóng thuế bằng tiền.
- Phát triển công nghiệp, chú trọng ngành sợi tơ tằm xuất khẩu.
- Khuyến khích Hoa tộc và Sĩ tộc tham gia vào việc phát triển công nghiệp.
-  Tập trung xây dựng ngành đóng tàu và hệ thống giao thông cận đại.
- Sớm phát triển ngành bưu chính, thông tin.
- Cải cách tài chính- tiền tệ: tăng thu thuế bằng tiền.
- Phát hành đồng yên chính thức.
- Thiết lập Ngân hàng, khuyến khích các tầng lớp cao trong xã hội tham gia vào hoạt động này.
- Sớm hình thành các tập đoàn kinh tế lớn như Mitsubishi và Mitsui…
- Đẩy mạnh hoạt động ngoại thương với châu Á và phương Tây.


4. Cải cách quân đội thời Meiji
- Trong hai năm đầu tiên, chính quyền Minh Trị vẫn loay hoay tìm một cơ cấu chính trị mới.
- Họ vẫn chưa có thái độ rõ ràng trong việc đối xử với cựu Shogun, người đã trao toàn bộ quyền lực cho Thiên Hoàng.
- Trong khi đó, chính quyền mới vẫn phải quyết định nhiều vấn đề phức tạp và cấp bách.
- Vào tháng 7/1869, chính phủ mới được xây dựng theo chế độ 2 quan 6 bộ.
- Shingikan phụ trách vấn đề tôn giáo năm độc lập với Dajokan.
- Dajokan trực tiếp nắm, các cơ quan còn lại.
- Việc thay đổi cơ cấu chính quyền mới có tính chất cách mạng đã diễn ra thuận lợi trong những năm đầu của chính quyền Minh Trị.
- Trong đó, việc xóa bỏ các đặc quyền phong kiến của tầng lớp võ sĩ là một công việc khó khăn và nguy hiểm hơn cả.
- Đây là tầng lớp xã hội đông đảo vốn độc quyền về sức mạnh quân sự, chính trị và được hưởng các đặc quyền có tính chất cha truyền con nối.
- Vì vậy, trong những năm 1869, chính quyền đã định ra những tên gọi mới cho 4 tầng lớp là Kazoku (Hoa tộc), Shizoku (Sĩ tộc), Sotsuzoku (Tốt tộc), Heimin (Bình dân).
- Nhìn chung, trong quá trình thi hành cải cách làm cho “tứ dân bình đẳng” thì tầng lớp Shizoku phải hi sinh nhiều nhất.
- Sau khi bị tước bỏ đeo kiếm, chế độ bổng lộc của họ cũng dần dần bị cắt giảm để giảm bớt gánh nặng cho nhà nước.
- Năm 1872 thành lập hai bộ: Bộ Lục quân và Bộ Hải quân.
- Học tập cách tổ chức quân đội của Pháp, Đức, tổ chức quân đội Nhật Bản hiện đại.
- Vào năm 1873, chính phủ cho phép những Shizoku nghèo, nếu muốc sẽ được lĩnh một khoản lương hưu trung bình là 500 yên bằng công trái (chỉ bằng 1/10 số hưu bổng lộc trước kia).
- Vì vậy, họ trở nên quá nghèo túng.
- Trên thực tế, các cưu võ sĩ đã bị rơi khỏi địa vị trước đây và bị ném vào một thế giới mới, phải tự tìm kiếm kế sinh nhai.
- Năm 1873, ban hành chế độ trưng binh.
- Theo đó, tất cả con trai từ 20 tuổi trở  lên bất kể sĩ tộc hay bình dân đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự 3 năm và dự bị quân sự 4 năm.
- Tăng cường sức mạnh quân đội, chống lại đặc quyền của tầng lớp võ sĩ cũ.
5. Phong trào văn minh khai hóa thời Meiji.
- Văn minh khai hoá là tổng hợp các cải cách về văn hoá - xã hội nhằm văn minh hoá hiện đại hoá Nhật Bản theo mô hình phương Tây.
- Việc thay đổi cơ cấu chính quyền mới có tính chất cách mạng đã diễn ra  thuận lợi trong những năm đầu của chính quyền Minh Trị.
- Một trong những nhiệm vụ trước tiên để xóa bỏ sự bất bình đẳng giũa các giai cấp, sự cách biệt lớn giữa các đẳng cấp.
- Vì vậy, trong năm 1869 chính quyền đã định ra những tên gọi mới cho 4 tầng lớp là Kazoku (Hoa tộc), Shizoku (Sĩ tộc), Sotsuzoku (Tốt tộc) và Heimin (Bình dân).
- Nhìn chung, trong quá trình thi hành cải cách làm cho “tứ dân bình đẳng” thì tầng lớp Shizoku phải hy sinh nhiều nhất.
- Đặc quyền dành cho con cái họ gia nhập quân đội theo chế độ cha truyền con nối trước đây cũng bị xóa bỏ bởi Lệnh trưng binh.
- Đây là đường lối của chính phủ mới, nhằm hiện đại hóa Nhật Bản, đuổi kịp các nước Âu Mỹ bằng cách xây dựng chế độ quân đội hiện đại thay thế cho chế độ quân đội phong kiến lấy võ sĩ làm trung tâm trước đây.
- Việc cải cách kinh tế đã giúp chính phủ ổn định được nguồn tài chính.
- Đây là cơ sở quan trọng để chính phủ thực thi những chính sách mới: phú quốc cường binh, thực sản hưng nghiệp và văn minh khai hóa.
- Để tạo cơ sở đưa Nhật Bản thành một quốc gia hiện đại, chính quyền Minh Trị đã quyết tâm xây dựng nền giáo dục theo mô hình phương Tây.
- Năm 1871, Bộ giáo dục được thành lập và năm sau (1872), chế độ giáo dục thống nhất cho cả nước đã được công bố (Gakkusei, học chế).
- Trên cơ sở học tập chế độ quản lý giáo dục của Pháp, cả nước được chia thành 8 khu đại học.
- Việc cưỡng bức giáo dục cũng được thi hành.
- Bất kể là nam hay nữ, khi đến tuổi đều phải tới trường học ít nhất là 3 năm.
- Cùng với việc tổ chức xây dựng hệ thống trường học từ cấp tiểu học tới bậc đại học, hàng ngàn thanh  niên được lựa chọn gửi ra nước ngoài để tiếp thu những kiến thức hiện đại.
- Hàng ngàn giáo sư và chuyên gia kỹ thuật nước ngoài thuộc những lĩnh vực khác nhau như chính trị, luật pháp, quân sự, ngoại giao, kinh tế, tiền tệ, công nghiệp, giao thông, giáo dục…đã được mời sang giảng dạy tại Nhật Bản với mức lương rất cao.
- Trong bối cảnh ấy, những luồng tư tưởng phương Tây đã tràn vào Nhật Bản.
- Giáo dục ý thức văn minh hoá cho các tầng lớp nhân dân, khuyến khích học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây và vượt qua phương Tây.
- Cải cách ăn mặc, ở, sinh hoạt, dùng lịch theo lối phương Tây.
- Đưa Nhật Bản từ một nước phong kiến sang một nước TBCN tiên tiến, “phú quốc cường binh”.