5/12/14

QUỐC SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC

Mến gởi các Bạn quan tâm đến Blog của tôi về những vấn đề Lịch sử dân tộc. Tôi sẽ cố gắng tìm những bài HAY, CHẤT LƯỢNG và đăng lên để chúng ta cùng nhau chia sẻ về Kiến thức Lịch sử dân tộc. Tôi rất cám ơn vì các bạn đã dành một tình yêu đặc biệt cho lịch sử nước nhà. Trân trọng cám ơn các bạn.

“Quốc sách ấp chiến lược” - một sản phẩm chính trị thâm độc
của Ngô Đình Nhu tan theo số phận của gia đình họ Ngô

Bài viết của Nguyễn Đắc Xuân, đăng trên: http://sachhiem.net/NDX/NDX018.php

Sau Hiệp Định ngừng bắn Genève 1954, chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, được Hoa Kỳ viện trợ, yên ổn trên năm năm. Đến năm 1960, Mặt trận Giải phóng miền Nam VN ra đời và không ngừng phát triển, Nam Việt Nam trở thành 1 trong 10 khu vực thử thách và là khu vực thử thách đầu tiên của chiến lược toàn cầu mới của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ thấy phải tăng cường chiến tranh để chống lại Phong trào giải phóng đang bùng lên. Ngày 29-4-1961 Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ phê duyệt "Kế hoạch chống nổi dậy". Kế đến nhiều phái đoàn nghiên cứu của Mỹ bay sang Việt Nam: Phái đoàn phó tổng thống Mỹ Johnson (5-1961), phái đoàn Tiến sĩ Staley thuộc Viện nghiên cứu Stanford (6-1961), phái đoàn của Taylor và Rosow trong bộ quốc phòng Mỹ (10-1961)..... Sau đó kế hoạch Staley - Taylor ra đời. Kế họach nầy có tham vọng giải quyết chiến tranh VN với 3 giai đọan:
Giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp “Ấp chiến lược” (Strategic Hamlets).
Giai đoạn 2 thực hiện từ đầu năm 1963, khôi phục kinh tế, tăng cường lực lượng quân đội, hoàn thành công cuộc bình định.
 Giai đoạn 3 thực hiện đến cuối năm 1965, phát triển kinh tế, ổn định miền Nam và kết thúc chiến tranh.
Kế hoạch được mở đầu và có ý nghĩa quyết định ở giai đoạn 1 là thực hiện cho được “quốc sách Ấp chiến lược”. Đó vừa là mục tiêu cơ bản, biện pháp chiến lược, vừa là kế sách trước mắt và lâu dài để giành thắng lợi trong chiến tranh ở Việt Nam.
1. “Quốc sách Ấp Chiến Lược” (ACL)
Ngày 3-2-1962, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc luật 11/TTP, thiết lập Ủy ban Trung ương Đặc trách ACL, Ủy ban họp mỗi tuần 1 lần, do Cố vấn Ngô Đình Nhu giữ chức Chủ tịch, Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương giữ chức Tổng thư ký, Ủy viên gồm các bộ Quốc phòng, Nội vụ, Giáo dục, Công dân vụ, Canh nông v.v. và nhiều cán bộ cao cấp quân dân chính[1] (1) (Chính Đao, Việt Nam Niên biểu 1939-1975, Tập I-C : 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000, tr. 251). Trụ sở đặt trong ba phòng ở đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). ACL là quốc sách của chính quyền anh em nhà họ Ngô. Với quốc sách ACL Mỹ và VNCH lúc đó dự định sẽ xây dựng 17.000 ấp, gom khỏang 10 triệu dân nông thôn, có thể bình định được vùng nông thôn Miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng.
Ngày 23-3-1962, Sài Gòn phát động chính sách ACL. Thí điểm đầu tiên là khu vực Bến Cát (Bình Dương) tức chiến dịch Mặt trời mọc (Sunrise). Người phụ trách chương trình ACL nầy là  Albert Phạm Ngọc Thảo. Chỉ huy tổng quát là tướng Văn Thành Cao (2) (Chánh Đạo, Việt Nam Niên biểu 1939-1975, Tập I-C : 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000, tr. 251)
http://sachhiem.net/LICHSU/IMG/VNwar/ApChLc_danbiluavao_DDTB.jpg
Dân quê bị lùa vào "Ấp Chiến Lược" 
 Mỗi ACL được bao quanh (thường gồm ba hào, hai thành cài chông mìn, dây thép gai), có từ một đến nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, có thiết lập hệ thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập bí mật, ban đêm các cổng chính ra vào được đóng lại. Việc quản lý Ấp do một Ban trị sự phụ trách, việc phòng thủ bảo vệ Ấp do lực lượng Phòng vệ dân sự phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa của Ấp sở tại phụ trách. ẤCL được tổ chức theo phương thức tự quản, tự phòng. nhằm tách rời du kích của lực lượng Giải phóng miền Nam ra khỏi dân nông thôn, cô lập du lích và cơ sở cách mạng để tiêu diệt hay kêu gọi chiêu hồi.
  “Quốc sách ACL” là một mô hình bình định nông thôn do Anh quốc thực hiện thành công ở Malaixia. Robert Thompson - chuyên gia quân sự về chống du kích,  được mời sang Nam Việt Nam làm cố vấn xây dựng ACL. Tháng 4-1962, quốc hội VNCH tuyên bố chương trình Âp chiến lược là một "quốc sách chống cộng"[2].
Để có tiền thực hiện “Quốc sách ACL”, ngày 21-8-1962, Hoa Kỳ đã ký kết với Chính phủ Diệm sẽ mua 10 triệu Mỹ kim tiền VNCH theo hối suất tự do, để VN có tiền tài trợ các dự án về Ấp Chiến Lược và giúp đỡ đồng bào Thượng tỵ nạn (3) (Đoàn Thêm, sđd. tr.328) Để cho Hoa Kỳ thấy hiệu quả của ngân sách Hoa Kỳ bỏ ra cho VNCH, ngày 30-9-1962 chính phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố đã có 1/3 Tổng số thôn ấp biến thành ALC (4) (Chính Đạo,  sđd. Tr. 261) Dưới áp lực của Cố vấn Ngô Đình Nhu, ngày 10-10-1962, Phong trào Nhân Dân tái thiết dinh Độc Lập quyên được hơn 19 triệu, phải dành 10 triệu cho ALC (5) (Đoàn Thêm, sđd. tr.331)
Ngày 26-3-1963, Ngô Đình Nhu chủ trì lễ khánh thành Trại “Nhân, Trí, Dũng” ở trung tâm huấn luyện cán bộ ACL tại suối Lồ Ô (6) (ĐoànThêm, sđd. tr.343). Để thấy sự quan trọng của “quốc sách ACL”, ngày 16-4-1963 tại Trại "Nhân, Trí, Dũng" (suối Lồ Ồ),  Ngô Đình Nhu đã chủ trì khóa học 11.
"Bộ trưởng Công dân vụ báo cáo về thành phần dự khóa 11 huấn luyện CB/XDACL gồm các thành phần sau:
-1/ cán bộ cao cấp trung ương, từ cấp Chánh sự vụ trở lên, mỗi bộ năm người. Riêng Bộ ngọai giao có thể cử nhiều hơn;
-2/ một số tỉnh trưởng, quận trưởng chưa thụ huấn, 60 sĩ quan thuộc bộ TTM, 133 sĩ quan khóa I Tâm lý chiến
-3/ Ngoài ra còn có ông luật sư Trần Văn Khiêm (7) (Trần Văn Khiêm, em ruột của Trần Thị Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) tình nguyện theo học nữa (8) (Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets" , Douglas Pike Collection: Other Manuscripts , TexasTech University. Trích lại của Hữu Nghị: và cuộc đảo chính Diệm Nhu:Nhu va Ấp chiến lược.)
http://sachhiem.net/LICHSU/IMG/VNwar/ApChienLuoc.jpgNhiều giáo sư, giảng viên Đại học Huế đã có mặt trong khóa học nầy. Cũng nhờ qua khóa học ấy mà đa số các giáo sư, giảng viên Đại học Huế thấy được âm mưu phá họai lịch sử văn hóa tôn giáo truyền thống Việt Nam như thế nào. Nhiều người “tốt nghiệp”khóa học ấy đã về Huế tham gia Phong trào thanh đấu chống chế độ gia đình trị họ Ngô từ tháng 5 cho đến đầu tháng 11-1963. (nguồnđã dẫn ở trên(Nguồn: "Intra Ministry Committee for Strategic Hamlets" , Douglas Pike Collection: Other Manuscripts , Texas TechUniversity). Trong thời gian đang diễn ra khóa học ACL lần thứ 11, ngày 17-4-1963, nhân viên Phủ Tổng Thống khánh thành ACL Bình Hưng gần Phú Lâm, do Chi đòan Công chức bảo trợ (9) (Đoàn Thêm, sđd tr.345) các học viên khóa học có dịp thấy nhãn tiền tham vọng biến miền Nam trở thành “tiền đồn chống Cộng, chống văn hóa truyền thống VN” của anh em nhà họ Ngô. .
Từ khi thực hiện “Quốc sách ACL”, hành quân càn quét lập ấp chiến lược trở thành hoạt động chủ yếu nhất của quân đội VNCH, sôi nổi nhất trong những năm 1962 - 1963. Tính đến cuối năm 1962 đã có gần 4.000 cuộc hành quân càn quét phục vụ cho chương trình ACL, trong đó có nhiều cuộc càn quét quy mô lớn như "Chiến dịch mặt trời mọc", "Chiến dịch Bình Tây", "Chiến dịch Sao Mai", "chiến dịch Thu Đông"... Đến cuối năm 1962 đầu năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố đã xây dựng được 9.095 ấp, gom giữ được khoảng 8 triệu dân.
2. “Quốc sách Ấp Chiến Lược”mong manh
“bùa hộ mạng” của Ngô Đình Nhu
Với kết quả được báo cáo như thế, Cố vấn Ngô Đình Nhu rất tự hào về thành tích ấy. Nhưng Ngô Đình Nhu không được cơ sở báo cáo rằng hằng đêm đã có bao nhiêu ACL đã bị phá, có bao nhiêu ACL do người của Mặt trận Giải phóng tổ chức, chỉ huy, ví dụ như trường hợp Albert Phạm Ngọc Thảo ở ấp thí điểm Bến Cát (Bình Dương) nói trên.
http://vietnamaaa.numeriblog.fr/congsan/2009/06/li%C3%AAn-th%C3%A0nh-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-b%E1%BB%8F-qu%C3%AAn-l%E1%BB%8Bch-s%E1%BB%AD.html
Mô hình tổng quát ấp chiến lược (ảnh history.sandiego.edu)
Sự thực thì việc xây dựng các ACL rầt mất thì giờ, rất tốn kém nhưng “kết quả” không như Nhu tưởng. ACL không giúp gì cho việc hành quân chống Cộng của quân đội mà ngược lại, miền Nam càng có nhiều ACL càng phát sinh nhiều đồn bót buộc quân đội VNCH phải thêm nhiệm vụ bảo vệ. Do đó quân đội VNCH rất lơ là với “quốc sách ACL”. Ngô Đình Nhu rất ưu tư vấn đề nầy.
Biên bản một cuộc họp của Ủy ban liên Bộ về ACL, ngày 2-3-1963, ghi lại nội dung thuyết giảng của Nhu về "quốc sách ACL" như sau:
"Tôi chỉ yêu cầu vùng, tiểu khu để ý đến những vùng lập ACL, chớ không phải chỉ lo cho ACL mà thôi. Vì dù có lập ACL hay không, bao giờ địch tập trung tấn công, thì quân đội cũng phải đối phó cả. Ủy ban ACL chỉ yêu cầu quân đội hai việc: một là đặc biệt cảnh giác vùng lập ACL; hai là đuổi địch đừng để cho địch tập trung đại đơn vị trong vùng lâp ACL được. ACL được thành lập sẽ chắc chắn làm nhẹ đi trách nhiệm của quân đội. Trước đến giờ, hành quân là tìm địch. Tìm không được, thì trở về, địch hoat động trở lại. Mình đi nhiều, địch phân tán hết. Mình đi ít, địch phục kích. Như vậy, dầu nhiều hay dầu ít, hành quân cũng bất lợi, vì tốn kém, mỏi mệt, ít khi thành công xứng đáng với cố gắng của quân đội". (nguồn: đã dẫn ở trên, trích lại của Hữu Nghị).
Ý kiến của Ngô Đình Nhu không được thực hiện như Nhu muốn, do đó trong cuộc họp ngày 12-4-1963 Nhu đã phê phán gắt hao Ủy ban liên bộ như sau:
- "Tôi nhận thấy việc tiếp viện cho các ACL bị VC tấn công không được thực hiện đúng mức và kịp thời. Các tỉnh phải liên lạc thường xuyên bằng vô tuyến với các quận để thông báo tin tức cho nhau đề cảo cảnh giác, đồng thời cấp quận cũng phải liên lạc luôn luôn với các ACL để hỏi biết tình hình, tin tức và đốc xuất họ đề cao cảnh giác, nhất là về ban đêm và các ngày nghỉ lễ, chiều thứ bảy, ngày chủ nhật. Thường, tôi thấy các địa phương còn thiếu ý thức cảnh giác, nhất là trong những ngày nghỉ, vì vậy tội yêu cầu các ông tỉnh trưởng, quận trưởng phải cố gắng làm việc nhiều hơn trong những ngày đó. Nếu cần nghỉ, thì nghỉ vào những ngày khác trong tuần, để tránh qui luật cố định mà địch có thể lợi dụng" (Trong một cuộc họp ngày 16-9-1963, Cố vấn  Ngô Đình Nhu đã nổi nóng với các tướng tá VNCH rằng:
"Sau mỗi lần VC tấn công một ấp chiến lược (ACL), tôi yêu cầu các Khu chiến thuật và cấp tỉnh, quận tổ chức hành quân trả đũa tức thới. Vấn đề này tôi đã đề cập nhiều lần nhưng chưa thấy các nơi tích cực thi hành. Nếu ta không hành quân trả đũa, thì đương nhiên ta khuyến khích địch tấn công mạnh các ACL. Tôi cũng nhận thấy bên quân đội không chú trọng nhiều tới việc yểm trợ công tác xây dựng ACL".
Tối 18-9-1963, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge mời cơm Cố vấn Ngô Đình Nhu và Bộ trưởng ngoại giao Trương Công Cừu. Trong điện tín đánh đi trưa hôm sau về Bộ ngọai giao Hoa Kỳ, Cabot Lodge có nhận xét: "Nhu nói thật nhiều, lập đi lập lại rằng y đã sáng tạo ra các ACL, rằng ai cũng bảo, kể cả người Mỹ, rằng y sẽ không làm nổi được đâu, song y vẫn đã làm được" (nguồn: FRUS, vol.IV, 129). Cabot Lodge viết như thế có nghĩa là Nhu muốn chứng tỏ cho Hoa Kỳ biết không ai có thể thay thế Nhu trong công cuộc “chống Cộng” ở miền Nam Việt Nam. Rõ ràng Nhu muốn lấy  “Sự thành công” của “Quốc sách ACL” làm cái bùa hộ mạng cho mình. Và, ACL  cũng là sự nghiệp chính trị lớn nhất của “Cố vấn Ngô Đình Nhu”.
3. Giải tán quốc sách Ấp Chiến Lược - lời chê tiếng khen
Quốc sách ACL biến những làng quê trở thành đốn bót quân sự sẵn sàng chiến đấu, những làng nào không thuận tiện biến thành làng chiến đấu thì phải dọn đến những nơi thuận tiện, bỏ hết nhà thờ họ, đình chùa, miếu mạo mang truyền thống văn hóa Việt ra đời từ thuở sinh cơ lập nghiệp và có thể thay vào đó một ngôi nhà thờ Thiên chúa giáo. Quốc sách ACL là một quốc sách phản dân (10) (Mười tám năm sau vụ đảo chính Diệm - Nhu. William Colby, nguyên giám đốc CIA, người đã từng làm trưởng luới CIA tại miền Nam từ năm 1959, trong một cuộc phỏng vấn dành cho chương trình "Phỏng vấn sử học " của thư viện Lyndon Baines Johnson ngày 2-6-1981 đã phát biểu: "Tôi nghĩ rằng đó là một sai lầm của trào Diệm - Nhu khi nhấn mạnh đến ACL. Do lẽ ACL không phải là một bộ phận truyền thống của chính quyền. Nhu đã góp phần vào tư duy ACL đó, Nhu không muốn bộ máy quyền lực truyền thống trong làng mạc tồn tại. Lẽ ra Nhu nên giữ lại bộ máy quyền lực cổ truyền này".) (Trích lại của Hữu Nghi). (Do đó, tướng Dương Văn Minh sau khi đã triệt hạ được gia đình họ Ngô, vào ngày 9-3-1964 ra tiếp Sắc luận 103/SL/CT  “giải tán” cái gọi là “quốc sách ấp chiến lược” để cho dân lập lại làng quê cũ hay về lại làng quê đã bị  bắt buộc phải  ra đi.
http://sachhiem.net/LICHSU/IMG/VNwar/ApChLc_noidaychong_DDTB.jpg
Đồng bào nổi dậy đập tan hàng loạt ấp chiến lược của địch
Chủ trương nầy của Dương Văn Minh đã giúp cho dân chúng nông thôn phá rã hàng ngàn ấp chiến lược. Không những dân quê đứng lên phá ACL, ngay sinh viên Đại học Huế cũng đã tổ chức thành nhiều nhóm về các vùng nông thôn, nhân danh “chống dư đảng Cần lao” triệt hạ bộ máy cai trị ở làng xã ra đời thừ thời Diệm Nhu, phá các ACL, lập nên chính quyền “thân dân” ở nông thôn chung quanh Huế. Người đứng đầu Phong trào nầy là sinh viên Luật Nguyễn Thiết, sinh viên Cao đẳng Mỹ Thuật Lê Minh Trường, Sinh viên văn khoa Lê Mạnh Trinh…Phong trào phá Ấp chiến lược ở vùng nông thôn Thừa Thiên Huế đã góp một phần quan trọng cho Phong trào đồng khởi của Mặt trận Giải phóng Thừa Thiên năm 1964. 
 Linh mục Cao Văn Luận- nguyên Viện trưởng Viện Đại học Huế, một trí thức phò Ngô, đã phê phán Sắc luật giải tán ACL của Dương Văn Minh như sau:
Tôi lại nghe một tướng lãnh cầm đầu phe Cách-Mạng (tức Trung tướng Dương Văn Minh) tuyên bố rằng ấp chiến lược không cần thiết, không ích lợi, những hàng rào quanh  Ấp chiến lược là hàng rào nhà tù.
 Không cần ông phải ký sắc lệnh cho phép dân chúng phá các hàng rào Ấp Chiến lược thì các cán bộ nằm vùng của Cộng sản cũng dựa lời tuyên bố vội vàng hớ hênh đó, giải thích sai lạc thêm lời tuyên bố đó, để mở ra một phong trào phá bỏ Ấp chiến lược, gỡ rào, san bằng hào lũy giải giới thanh niên chiến đấu. Nhiều Ấp chiến lược trước đây lập được những thành tích ngăn chận Cộng sản hữu hiệu, nay thanh niên chiến đấu và cán bộ công dân lo sợ bị tân chế độ đàn áp bắt bớ, vứt súng bỏ trốn, bỏ ngỏ các Ấp chiến lược cho du kích Việt Cộng và các cán bộ nằm vùng. Việt Cộng xúi dân nổi lên phá rào, san lũy, giải giới thanh niên chiếm đấu, mở ngỏ đón bọn Cộng sản nằm vùng. Nhiều Ấp chiến lược kiểu mẫu, qui tụ phần lớn giáo dân trở thành nạn nhân đầu tiên của phong trào sai lầm này” (11) (LM.Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Hồi ký 1940-1965, Nxb Trí Dũng, SG 1972, tr.381)
Trong buổi lễ “Tưởng niệm cố Đại tướng Dương Văn Minh” tổ chức tại Chùa Việt Nam (Los Angeles) vào ngày 18.9.2001, ông Đỗ Mậu - người cùng với tướng Dương Văn Minh tổ chức lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm tháng 11-193, tác giả hồi ký Việt Nam máu lửa quê hương tôi đã đọc bài “Khóc Dương Văn Minh” gồm 10 trang in cở A4. Trong những ý nghĩ cuối đời, ông Đỗ Mậu cho rằng ông Dương Văn Minh “là một lãnh tụ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng”. Đỗ Mậu viết:
Với tư cách Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng ông (Dương Văn Minh) đã đưa ra hai quyết định mà chỉ có thời gian và chánh tình quốc tế mới chứng minh được ông là một lãnh tụ sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng. Đó là việc ông ra lệnh hạ sát hai ông Diệm Nhu và quyết định hủy bỏ “Quốc sách ấp chiến lược” (NĐX nhấn mạnh) vì chương trình này là những chủ trương vô cùng thâm độc. Anh em nhà Ngô và người Công giáo Việt Nam lấy lý do chống Cộng sản để xây dựng chương trình, nhưng mục đích thầm kín là để triệt hạ nền văn hóa dân tộc, xóa bỏ đạo thờ cúng ông bà, xóa bỏ đời sống xã hội theo truyền thống cổ truyền cha ông để lại…” (12) (Hoành Linh Đỗ MậuKhóc cố Đại tướng Dương Văn Minh, 10 trang in cở A4, trước khi qua đời tác giả gởi cho Nguyễn Đắc Xuân một bản sao)
“Quốc sách ACL” bị giải tán, giai đoạn 1 thực hiện từ giữa năm 1961, nội dung chủ yếu là bình định miền Nam bằng biện pháp “Ấp chiến lược” (Strategic Hamlets) của kế hoạch Staley - Taylor hòan tòan thất bại. Vì thế Mỹ và VNCH không thực hiện được giai đọan hai và giai đọan ba để giành chiến thắng, kết thúc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam vào năm 1965 như họ đã lập kế họach. Sự thất bại của quốc sách ACL mở đầu cho những thất bại lớn hơn về sau không phải vì thiếu tiền, thiếu kỹ thuật phòng thủ, thiếu phương tiện mà chính vì nó thiếu chính nghĩa, thiếu cái tâm, đi ngược lại với truyền thống văn hóa của dân tộc. Không chỉ các lực lượng giải phóng dân tộc phá các ACL để cứu dân mà cả những người dù ở bên kia chiến tuyến mà còn một chút thương dân ở đáy lòng cũng  phải hành động như thế. Đó là trường hợp của tướng Dương Văn Minh đúng 45 năm trước (1964-2009).      
Nguyễn Đắc Xuân, Gác Thọ Lộc, Tháng Một 2009
NDVN, ngày 8/2/09



[1] Nguyễn Đắc Xuân (2010), “Quốc sách ấp chiến lược” - một sản phẩm chính trị thâm độc của Ngô Đình Nhu tan theo số phận của gia đình họ Ngô, nguồn: http://sachhiem.net/NDX/NDX018.php.
[2] Nguyễn Đắc Xuân (2010), “Quốc sách ấp chiến lược” - một sản phẩm chính trị thâm độc của Ngô Đình Nhu tan theo số phận của gia đình họ Ngô, nguồn: http://sachhiem.net/NDX/NDX018.php.

24/11/14

ÔN THI HK I – NĂM HỌC 2014-2015 MÔN: LỊCH SỬ - KHỐI 10

ÔN THI HK I – NĂM HỌC 2014-2015
MÔN: LỊCH SỬ - KHỐI 10



1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế của các quốc gia cổ đại phương Đông:
ĐKTN: Ven lưu vực các con sông lớn có điều kiện tự nhiên
- Thuận lợi: Đất đai phù sa màu mỡ, mưa nhiều, khí hậu ấm nóng
- Khó khăn: thiên tai, lũ lụt
Kinh tế: họ biết sử dụng công cụ bằng kim loại (đồng thau) cùng những vật liệu khác như gỗ, tre…
Sản xuất chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa, mỗi năm họ trồng 2 vụ lúa.
Ngoài ra, họ còn biết làm gốm, dệt vải, chăn nuôi gia súc và bắt đầu trao đổi sản phẩm giữa các vùng.
2. Xã hội cổ đại phương Đông
Xã hội cổ đại phương Đông gồm 3 tầng lớp
- Quý tộc: Gồm các quan lại, chủ đất..Họ sống sung sướng dựa vào sự bóc lột nông dân công xã.
- Nông dân công xã: chiếm số lượng đông nhất, là lực lượng lao động nuôi sống xã hội, phải chịu nhiều thứ thuế.
- Nô lệ: Chủ yếu là tù binh,dân nghèo… Họ phải làm các việc nặng nhọc và hầu hạ quý tộc.
3. Chế độ chuyên chế cổ đại:
Duy trì thể chế chuyên chế cổ đại
Đứng đầu Nhà nước là một vị vua chuyên chế, nắm quyền lực tối cao. Giúp vua là bộ máy quan liêu gồm toàn quý tộc gọi là chế độ chuyên chế cổ đại.
Nhà nước làm các việc như thu thuế, xây dựng công trình công cộng, chỉ huy quân đội
Do nhu cầu trị thủy và chống ngoại xâm nên cần có một sự lãnh đạo tối cao, thống nhất. Do đó, Nhà nước cổ đại phương Đông được thiết lập theo thể chế chuyên chế

4. Thiên nhiên và kinh tế các quốc gia cổ đại phương Tây
a. Điều kiện tự nhiên
+ Thuận lợi: ven biển Địa Trung Hải có biển nhiều hải cảng, giao thông trên biển dễ dàng, nghề hàng hải sớm phát triển.
+ Khó khăn: đất đai ít màu mỡ, khô cằn
b. Kinh tế
- Nông nghiệp: trồng cây lưu niên như nho, cam, chanh, oliu…
- Thủ công nghiệp: các nghề làm gốm, rượu nho, dầu oliu… rất phát triển với nhiều thợ giỏi, khéo tay…
- Thương nghiệp phát triển mạnh, buôn bán với các nước phương Đông (bán: đồ sứ, rượu nho, dầu oliu, mua: lương thực, gia súc, tơ lụa, gia vị… -> Tiền tệ được lưu thông.
5. Thị quốc Địa Trung Hải
- Thị quốc là những quốc gia thành thị (thành bang) bao gồm một thành thị ở trung tâm (có bến cảng) và một vùng đất xung quanh để sản xuất.
- Về chính trị: Duy trì thể chế dân chủ. Người ta không chấp nhận có vua, đứng đầu nhà nước là Hội đồng 500 do nhân dân bầu ra. Người ta bầu ra 10 viên chức điều hành công việc. Tuy nhiên, chỉ có chủ nô mới có quyền công dân => Đây là thể chế dân chủ chủ nô dựa vào sự bóc lột thậm tệ của chủ nô đối với nô lệ.
6. Văn hóa cổ đại Hy Lạp và Roma cổ đại
a. Lịch và chữ viết
- Lịch: Cư dân Địa Trung Hải đã tính được lịch một năm có 365 ngày và ¼ ngày chia thành 12 tháng. Tháng có 30 và 31 ngày, riêng tháng 2 có 28 hoặc 29 ngày => rất gần với hiểu biết ngày nay.
- Chữ viết: Phát minh ra hệ thống chữ cái Latinh (A, B, C…) có khả năng ghép chữ thành từ lúc đầu có 20 chữ, sau thêm 6 chữ nữa để trở thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay. Ngoài ra, họ còn dùng chữ số La Mã để ghi các đề mục lớn.
 - Ý nghĩa: Đây là cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.
b. Sự ra đời của khoa học
- Đạt nhiều thành tựu trong các lĩnh vực: Toán, Lý, Sử, Địa.
- Những hiểu biết về khoa học đến thời Hylạp, Roma mới thực sự trở thành khoa học vì có độ chính xác của khoa học, đạt tới trình độ khái quát thành định lí, định đề có giá trị đến ngày nay như định lý Pitago, Thalet...
c. Văn học
- Tiêu biểu là bộ Anh hùng ca I-li-at và Ô-đi-xê của Home. Xuất hiện một số nhà viết kịch tiêu biểu như: Sophotler, Esin…
- Các vở kịch: ca ngợi cái đẹp, cái thiện và có tính nhân đạo sâu sắc.
d. Nghệ thuật
- Nhiều công trình nghệ thuật đạt đến trình độ tuyệt mĩ như: tượng nữ thần A-thê-na, thần Vệ nữ Mi-lô…

7. Chế độ phong kiến Trung Quốc dưới thời Đường
Năm 618, Lý Uyên lập ra nhà Đường.
 a. Kinh tế:
 + Nông nghiệp: thực hiện chính sách quân điền, áp dụng kỹ thuật canh tác mới, chọn giống,… dẫn tới năng suất tăng.
 + Thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, xuất hiện nhiều xưởng thủ công luyện sắt, đóng thuyền...với quy mô lớn.
=>  Kinh tế thời Đường phát triển toàn diện hơn so với các triều đại trước.
b. Chính trị:
+ Hoàn thiện chính quyền từ Trung ương xuống địa phương
+ Tuyển dụng quan lại bằng thi cử, cử người thân tín cai quản các địa phương.
+ Tiếp tục chính sách xâm lược và mở rộng lãnh thổ, xâm lược An Nam, Triều Tiên, Tây Tạng….
=> Trung Quốc là quốc gia phong kiến hùng mạnh nhất.
Thời Đường là đỉnh cao chế độ phong kiến Trung Quốc vì kinh tế phát triển toàn diện, lãnh thổ rộng lớn nhất và đạt nhiều thành tựu quan trọng về văn hóa như: Thơ Đường, Phật giáo…

8. ẤN ĐỘ DƯỚI THỜI MÔ-GÔN.
- Thế kỉ XVI, vương triều Mô-gôn được thành lập.
- Chính sách của vua A-cơ-ba:
+ Xây dựng chính quyền mới, thực hiện bình đẳng dân tộc.
+ Hạn chế sự phân biệt sắc tộc, tôn giáo.
+ Đo đạt lại ruộng đất, định lại mức thuế, thống nhất hệ thống cân đong, đo lường.
+ Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động sáng tạo văn hoá nghệ thuật.
- Nhận xét: những chính sách đúng đắn của vua A-cơ-ba làm cho xã hội ổn định, kinh tế phát triển, văn hoá có nhiều thành tựu mới, đất nước thịnh vượng.
9. Xã hội phong kiến Tây Âu
a.Lãnh địa phong kiến:  là vùng đất đai rộng lớn gồm đất lãnh chúa (có nhà thờ, lâu đài, nhà kho…) và đất khẩu phần (giao cho nông nô sản xuất).
b.Đời sống trong lãnh địa:
- Lãnh chúa là quý tộc, tăng lữ…sống nhàn rỗi, xa hoa, bóc lột tô thuế và sức lao động của nông nô.
- Nông nô là người sản xuất chính.  Họ bị bóc lột nặng nề, nộp tô thuế cho lãnh chúa.
c. Đặc điểm của lãnh địa
- Kinh tế: Kĩ thuật sản xuất có nhiều  tiến bộ như biết dùng phân bón, máy móc vào sản xuất…nhưng vẫn mang tính khép kín, tự cung, tự cấp, tự túc
- Chính trị: mỗi lãnh địa có quân đội, tòa án, luật pháp riêng, có chế độ thuế khóa, tiền tệ, đo lường…riêng.

=> Lãnh địa là một đơn vị kinh tế, chính trị độc lập. Do đó, chế độ phong kiến Tây Âu là phong kiến phân quyền.

ÔN THI HK I – NĂM HỌC 2014-2015 MÔN: LỊCH SỬ - KHỐI 11

ÔN THI HK I – NĂM HỌC 2014-2015
MÔN: LỊCH SỬ - KHỐI 11
Baøi 1. Cuộc Duy tân Minh Trị Nhật Bản 1868
Tháng 1-1868, Thiên hoàng Minh Trị thực hiện cuộc cải cách với nội dung:
- Chính trị: thiết lập chính phủ mới. Năm 1889, ban hành Hiến pháp mới, thiết lập chế độ Quân chủ Lập hiến.
- Kinh tế: Thống nhất thị trường, tiền tệ, cho phép mua bán ruộng đất, phát triển kinh tế TBCN…
- Quân sự:  Quân đội tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây, trang bị vũ khí, đạn dược đầy đủ.
- Giáo dục: Bắt buộc, chú trọng giảng dạy khoa học – kĩ thuật, cử học sinh du học….
* Tính chất: Đây là cuộc CMTS do liên minh quý tộc – tư sản thực hiện “từ trên xuống” để mở đường cho CNTB phát triển và giúp Nhật giử vững được nền độc lập của mình.
2. Tôn Trung Sơn và Cách mạng Tân Hợi (1911)
a. Tôn Trung Sơn và TQ Đồng minh hội.
- Cuối TK XIX đầu TK XX, giai cấp tư sản ra đời.
- TS bắt đầu thành lập các tổ chức chính trị, tiêu biểu là Tôn Trung Sơn theo khuynh hướng Dân chủ tư sản.
- Năm 1905, TTS thành lập TQ Đồng minh hội nhằm: Đánh đổ Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, thực hiện quyền bình đẳng về ruộng đất.
b. Cách mạng Tân Hợi.
- Nguyên nhân: ngày 9-5-1911, Mãn Thanh trao quyền kinh doanh đường sắt cho đế quốc, Đồng minh hội lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa.
- Diễn biến: + ngày 10-10-1911, khởi nghĩa bùng nổ ở Vũ Xương và nhanh chóng lan rộng khắp miền Nam và Trung TQ.
+ Ngày 29-12-1911, Quốc dân Đại hội bầu TTS làm Đại tổng thống và thông qua Hiến pháp lâm thời, thành lập nước Trung Hoa Dân quốc.
+ Ngày 6-3-1912, Viên Thế Khải lên làm Đại tổng thống.  Cách mạng kết thúc. 
- Kết quả: lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm ở Trung Quốc.
- Ý nghĩa: Ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh ở các nước châu Á.
- Tính chất: Đây là cuộc cách mạng dân chủ tư sản vì đã lật đổ PK, mở đường cho CNTB phát triển. Tuy nhiên, đó là CMTS không triệt để vì:
+ Không thực sự thủ tiêu giai cấp PK 
+ Không đụng chạm đến các nước đế quốc
+ Không giải quyết ruộng đất cho nông dân
3. Xiêm thế kỉ XIX
- Giữa TK XIX, trước nguy cơ xâm lược của thực dân Anh và Pháp, vua Ra-ma IV và Ra-ma V tiến hành cải cách với nội dung:
+ Xóa bỏ chế độ nô lệ, chế độ lao dịch.
+ Giải phóng sức lao động.
+ Giảm nhẹ thuế ruộng đất.
+ Khuyến khích tư nhân kinh doanh công thương nghiệp, ngân hàng.
+ Cải cách theo phương Tây về hành chính, quân đội, ngoại giao…
Kết quả: nhờ những cải cách đó mà Xiêm đã phát triển theo con đường TBCN. Đồng thời, dựa vào vị trí nước đệm giữa Anh, Pháp và với chính sách ngoại giao mềm dẻo mà Xiêm đã tạm thời giữ được độc lập tương đối về chính trị.

4. Thế chiến thứ nhất 1914 – 1918
a. Nguyên nhân
 Nguyên nhân sâu xa
- Sự phát triển không đều về kinh tế và thuộc địa làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc sâu sắc. Hậu quả:
+ Bùng nổ các cuộc chiến tranh chiến quốc (Trung-Nhật; Mĩ-Tây Ban Nha; Anh-Bô-ơ; Nga-Nhật).
+ Hình thành 2 khối quân sự đối lập:
Khối Liên minh gồm: Đức, Áo-Hung, Italia (1882)
Khối Hiệp ước gồm Anh, Pháp, Nga (1907)
 Cả hai khối cùng chạy đua vũ trang, chuẩn bị cho chiến tranh bùng nổ.
 Nguyên nhân trực tiếp:
- Ngày 28.06.1914, Hoàng thân Áo-Hung bị sám sát tại Xecbia.
- Ngày 28.07, Áo – Hung tuyên chiến với Xec-bi-a.
- Ngày 01.08, Đức tuyên chiến với Nga
- Ngày 03.08, Đức tuyên chiến với Pháp
- Ngày 04.08, Anh tuyên chiến với Đức
=> Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ
b. Tính chất:
- Đây là cuộc chiến tranh đế quốc, phi nghĩa để phân chia thuộc địa. Kết thúc thời cận đại, mở ra thời hiện đại của lịch sử thế giới.
c. Hậu  quả:
- Đem lại lợi ích cho các nước thắng trận.
- Gây ra hậu quả nặng nề: 10 tr người chết, 20tr người bị thương, nhiều thành phố, làng mạc bị phá hủy, chiến phí đến 85 tỉ USD.
5. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
a. Cách mạng Tháng Mười Nga 1917
Nguyên nhân: Để chấm dứt tình trạng 2 chính quyền song song tồn tại và đưa Nga thoát khỏi chiến tranh, Lênin và đảng Bôn-sê-vich (Bonsheviks) quyết định lật đổ chính phủ lâm thời.
Tháng 4.1917, Lê-nin thông qua Luận cương Tháng Tư và xác định phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, lật đổ chính phủ tư sản lâm thời.
- Ngày 7.10 (20.10), Lênin bí mật về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng.
- Đêm 24.10 (6.11), cách mạng bùng nổ. Quân khởi nghĩa bao vây Cung điện Mùa Đông.
- Đêm 25.10 (7.11), quân khởi nghĩa chiếm Cung điện Mùa Đông, toàn bộ chính phủ lâm thời bị bắt (trừ Kerenxki).
- Đầu 1918, cách mạng thắng lợi trong cả nước.
=> Cách mạng XHCN đầu tiên thắng lợi trên thế giới.
b. Ý nghĩa lịch sử của CMT 10 Nga.
- Đối với Nga: làm thay đổi tình hình đất nước và số phận dân tộc Nga. Mở ra kỉ nguyên mới: đưa công nhân, nhân dân lao động làm chủ đất nước và vận mệnh dân tộc mình.
- Đối với thế giới: làm thay đổi cục diện thế giới, cổ vũ mạnh mẽ và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho phong trào cách mạng thế giới.
CMT 10 làm thay đổi cục diện thế giới vì: Phá vỡ hệ thống thế giới của CNTB; Xây dựng nhà nước công-nông-binh; Phục vụ vì quyền lợi của công – nông và nhân dân lao động.

4/11/14

KẾT HỢP ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO VỚI ĐẤU TRANH QUÂN SỰ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)



PGS.TS. Hồ Khang
 Viện Lịch sử quân sự
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của toàn dân thể dân tộc Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Trong suốt tiến trình kháng chiến, Đảng LĐVN, Nhà nước Việt Nam luôn nêu cao ngọn cờ chính nghĩa, đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân kết hợp với sức mạnh của thời đại, tiến công đối phương trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa - tư tưởng, nhằm đánh bại ý chí xâm lược của kẻ xâm lược. Nhận thức rằng, "quân sự là việc chủ chốt trong kháng chiến"[1], Đảng LĐVN luôn nắm vững mối quan hệ giữa mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao, nâng ngoại giao thành một mặt trận có ý nghĩa chiến lược phối hợp chặt chẽ với các mặt trận quân sự, chính trị trong chiến tranh, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường và củng cố, mở rộng thắng lợi đó bằng hoạt động ngoại giao.

1. Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng LĐVN khẳng định mặt trận ngoại giao là một mặt trận kháng chiến có vị trí chiến lược quan trọng, nhằm động viên cao độ mọi lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, mặt trận đấu tranh ngoại giao phải trở thành một điểm sáng của sự phối hợp rất chặt chẽ và trong nhiều thời điểm phải phát triển thật nhịp nhàng với mặt trận quân sự, chính trị để cùng giành thắng lợi, làm chuyển biến cục diện chiến tranh. Kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự trên chiến trường, đấu tranh ngoại giao phải tạo hiệu quả mới, tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, cục diện đan xen giữa “đánh” và “đàm” giúp làm chuyển biến cục diện chiến tranh, tiến tới kết thúc chiến tranh đúng thời cơ. Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao chính là sự phát huy cao độ sức mạnh chính trị của cuộc chiến tranh chính nghĩa, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, thêm bạn, bớt thù, phân hoá và cô lập đối phương. Đây là một mặt trận có vai trò to lớn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Một đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp, sắc bén sẽ làm tăng thêm sức mạnh của cuộc kháng chiến. Tuy đấu tranh ngoại giao là một mặt trận quan trọng, nhưng kinh nghiệm lịch sử cũng đã chứng minh rằng, nó chỉ có thể tiến triển, thu được kết quả trên cơ sở những thắng lợi về quân sự và chính trị mà quân và dân giành được trên chiến trường. Do bản chất cực kỳ ngoan cố của những kẻ xâm lược, nên chỉ khi xây dựng lực lượng chính trị và quân sự ngày càng lớn mạnh, đánh cho đối phương thất bại nặng nề, làm cho lực lượng chính trị và quân sự suy yếu nghiêm trọng, các âm mưu chiến lược liên tiếp bị phá sản, thì mới đè bẹp được ý chí xâm lược của đối phương, kéo đối phương vào thế phải vừa đánh, vừa đàm, buộc phải ký kết ngoại giao, tiếp nhận những điều kiện có lợi cho dân tộc Việt Nam. Như vậy, thắng lợi quân sự trên chiến trường là yếu tố quyết định cho thắng lợi trên bàn đàm phán và ngược lại, thắng lợi trên bàn đàm phán sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giành được thắng lợi lớn hơn trên chiến trường, buộc đối phương phải xuống thang. Mặt trận ngoại giao cùng với mặt trận quân sự và chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng.
 2. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành lực cản chính trong cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Tiến hành cuộc đấu tranh chính nghĩa chống lại đế quốc Mỹ vì độc lập, tự do, vì những quyền dân tộc thiêng liêng, bất khả xâm phạm, cuộc kháng chiến của toàn Đảng và toàn  thể nhân dân Việt Nam được sự đồng tình, ủng hộ của nhân loại tiến bộ trên thế giới; kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của dân tộc Việt Nam cũng là kẻ thù chung của nhân loại tiến bộ. Để động viên một cách cao nhất mọi lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ cho cuộc kháng chiến, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã phân tích tình hình, chiến lược của các nước lớn có liên quan, đặc biệt là chiến lược của Mỹ, Việt Nam trong trào lưu vận động, biến chuyển của thế giới, gắn liền việc xác định nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng, chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam với việc đề ra mục tiêu, phương hướng, đường lối, chính sách đối ngoại, chiến lược, sách lược đấu tranh, tập hợp lực lượng, xây dựng nền tảng chính sách đối ngoại và nền ngoại giao Việt Nam, tiến công đối phương trên chính trường quốc tế. Thực hiện tư tưởng cốt lõi của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 13 (1-1967) “đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất của cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”[2], trong cuộc kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xây dựng, phát triển công tác ngoại giao thành một lực lượng đấu tranh, một phương thức tiến công kẻ xâm lược trên trường quốc tế, thành một diễn đàn tập hợp những tiếng nói chính nghĩa ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự, mặt trận chính trị, lấy chính nghĩa làm điểm tựa, lấy hữu nghị, đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc làm mục tiêu, lấy hoà bình, hoà hiếu làm tư tưởng xuyên suốt, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, mặt trận ngoại giao góp phần đẩy mạnh phong trào đấu tranh cho hoà bình và tiến bộ trên thế giới, hình thành thế và lực tiến công ngoại giao ngày càng mạnh. Bằng những hoạt động ngoại giao hiệu quả, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tranh thủ được các nước ủng hộ, chi viện về vật chất cũng như tinh thần, tăng cường và củng cố hậu phương quốc tế, đồng thời làm xói mòn hậu phương đối phương, cô lập đối phương về chính trị trên trường quốc tế, góp phần không nhỏ vào việc triệt để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ, bế tắc của đế quốc Mỹ và Chính quyền Sài Gòn, làm cho nội tình của nước Mỹ ngày càng chia rẽ trong vấn đề chiến tranh Việt Nam, khiến giới lãnh đạo Washington bị phản ứng, bị chống đối và rơi vào tình thế lúng túng, bị động. Willlam Duiker - một học giả, chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam, đã phải tự hỏi: “Làm thế nào mà người Việt Nam chiến thắng bằng cách duy trì một cuộc tiến công ngoại giao vượt trội hơn hẳn một quốc gia vốn được coi là hùng mạnh nhất thế giới?”.
Kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, kết hợp cuộc chiến đấu trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên chính trường quốc tế, đánh đúng vào chỗ yếu cơ bản về chính trị của đối phương, đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thực sự mang lại hiệu quả to lớn, góp phần tạo thêm thế và lực mới cho cuộc chiến tranh toàn dân và toàn diện. Điều đó được thể hiện rõ ràng, sinh động, nhất là từ khi VNDCCH mở cục diện vừa đánh vừa đàm.
Chọn đúng thời cơ để mở đòn tiến công ngoại giao, kéo Mỹ vào bàn đàm phán cả một vấn đề nghệ thuật. VNDCCH đã mở cuộc tiến công ngoại giao năm 1967 đúng lúc, khi đang ở thế thắng. Tuy nhiên, Mỹ vẫn mưu toan "đàm phán trên thế mạnh", đòi miền Bắc phải "giảm hoạt động quân sự ở miền Nam, giảm thâm nhập vào miền Nam" (đòi phải chấm dứt sự chi viện cho quân dân miền Nam chống Mỹ - một điều hết sức phi lý), đồng thời đưa ra công thức thương lượng "có đi, có lại"... Trong thư gửi Tổng thống Johnson tháng 2-1967, Hồ Chí Minh đã bác bỏ yêu cầu đó và tuyên bố dứt khoát: "Chính phủ Mỹ đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì con đường đưa đến hoà bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt xâm lược"[3]. Chỉ đến khi quân và dân miền Nam  giành thắng lợi to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, làm đảo lộn toàn bộ tính toán chiến lược và làm lung lay ý chí xâm lược của Chính quyền Mỹ, buộc họ phải phi Mỹ hoá và xuống thang chiến tranh, thì Tổng thống Johnson mới chịu tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20o trở ra, cử đại diện Mỹ thương lượng với Việt Nam và không ra ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ mới (31-3-1968). Tuyên bố đó của Johnson tuy chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của VNDCCH, nhưng để ép đối phương tiếp tục xuống thang chiến tranh và đi vào thương lượng, ngày 3-4-1968, Việt Nam tuyên bố chấp nhận đi vào đàm phán. Cuộc đàm phán Paris đã mở ra cục diện "vừa đánh vừa đàm", phản ánh một giai đoạn chiến đấu cực kỳ gay go, quyết liệt giữa VNDCCH và Mỹ. Trên bàn đàm phán diễn ra sự đấu trí gay cấn, kiên quyết, đòi hỏi chiều sâu trí tuệ và những bước đi quyết sách thông minh, song cẩn trọng. Khác với Hội nghị quốc tế Gieneve về Đông Dương năm 1954, Hội nghị Paris là cuộc đàm phán tay đôi do Việt Nam  thắng lớn, thế và lực của Việt Nam mạnh hơn năm 1954. Vì sự thất bại nặng nề do cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân 1968, Mỹ buộc phải coi Việt Nam là một bên đối thoại trực tiếp, bình đẳng và miễn cưỡng chấp nhận thương lượng để tìm một lối thoát danh dự.
Trên chiến trường, trong những năm 1971-1972, quân dân miền Nam  mở các đợt hoạt động quân sự mạnh mẽ, đánh bại các cuộc hành quân, càn quét của Mỹ, quân đội Sài Gòn sang Campuchia, Nam Lào. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 với ba chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng trên ba hướng Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, hai chiến dịch tổng hợp ở Bắc Bình Định và đồng bằng Nam Bộ đã hỗ trợ đắc lực cho cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán. Hoà nhịp với thắng lợi to lớn của quân và dân trên các chiến trường, những năm 1971 -1972, VNDCCH đẩy mạnh thế tiến công trong đàm phán Paris trên thế chủ động hơn bao giờ hết. Kết hợp chặt chẽ đánh với đàm, Việt Nam kiên trì đấu tranh đòi Mỹ phải rút hết quân viễn chinh về nước. Dù phản ứng quyết liệt, song phía Mỹ vẫn buộc phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân đội. Tuy nhiên, trong nỗ lực vớt vát cuối cùng, Mỹ đẩy mạnh “Việt Nam hoá chiến tranh”, nhằm ép Việt Nam thương lượng trên thế mạnh. Để tăng thêm sức ép, Mỹ xuất con bài cuối cùng - dùng B52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng. Trước đòn giáng trả kiên cường, anh dũng, quyết liệt của quân và dân Việt Nam, Mỹ chuốc lấy thất bại thảm hại trong cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 cuối năm 1972; âm mưu đàm phán trên thế mạnh của Mỹ bị phá sản, ý chí xâm lược của Mỹ bị bẻ gãy. Bên cạnh đó, kết hợp những vận động, biến chuyển quốc tế, tính toán lại những mục tiêu mang tính khu vực, toàn cầu, Mỹ chấp nhận ký Hiệp định Paris, đơn phương rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh về nước, chấm dứt dính líu quân sự ở Việt Nam. Thắng lợi của Hội nghị Paris thể hiện sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng mặt trận quân sự và ngoại giao đạt tới đỉnh cao; là sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cuộc chiến đấu trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế, đẩy mạnh cuộc vận động quốc tế, đánh vào hậu phương của Mỹ, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, tạo điều kiện cho quân dân Việt Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Đánh giá đúng so sánh lực lượng hai bên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là đánh giá, phân tích mọi mặt chiến lược của Hoa kỳ, hạ quyết tâm đánh và quyết đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, Bộ thống soái tối cao Việt Nam đã đề ra chủ trương, chiến lược, sách lược kết hợp các mặt đấu tranh để giành thắng lợi. Đây đồng thời là một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến chiến thắng mùa Xuân 1975. Đứng vững trên lập trường yêu nước, hành động vì dân tộc, có phương pháp tiếp cận khoa học, biện chứng, Đảng LĐVN lúc đó đã xem xét chỗ mạnh, chỗ yếu của mình và đối phương một cách tổng hợp trong không gian và thời gian cụ thể, theo quan điểm vận động phát triển, luôn chú ý cả yếu tố khách quan lẫn yếu tố chủ quan trong chỉ đạo chiến tranh. Nhờ đánh giá đúng tương quan lực lượng, thấu hiểu âm mưu và chiến lược chiến tranh của đối phương, thấu hiểu chiến lược của các nước lớn, đánh giá đúng thời cuộc, cho nên các quyết sách được đề ra đã nhằm đúng, nhằm trúng những điểm “tử huyệt” của đối phương, nâng cao, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cộng đồng dân tộc. Như vậy, dù xét theo ý nghĩa nào, thì việc theo sát thời cuộc, nắm bắt xu thế phát triển của thời cuộc, kịp thời đổi mới tư duy luôn luôn là tiền đề cho việc hoạch định chính xác chính sách, xác định đúng đắn phương hướng, thực hiện chuẩn xác kế hoạch phối hợp có hiệu quả giữa các mặt đấu tranh, trong đó có đấu tranh ngoại giao và đấu tranh quân sự. Kết hợp đánh trên chiến trường với tiến công trên mặt trận ngoại giao, Đảng LĐVN đã tranh thủ hoà bình với những thời gian ngừng chiến cần thiết trong những hoàn cảnh nhất định, để chấn chỉnh lực lượng và phát triển lực lượng, chuẩn bị cho  những trận chiến đấu mới. Trong công tác đối ngoại, Đảng LĐVN không ngừng tranh thủ sự ủng hộ và viện trợ quốc tế ngày càng lớn hơn trong quá trình chiến tranh và phát huy hiệu lực ngày càng cao sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Chính vì vậy và có như vậy, nhân dân Việt Nam mới có thể tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ và cuối cùng đã tạo nên sức mạnh đủ để đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập, tự do, thống nhất non sông.
Từ những luận giải nêu trên, trong thời cơ và vận hội mới của đất nước, khi xu thế quốc tế hoá đời sống của các quốc gia dân tộc trên hành tinh đang trở thành xu thế nổi trội, để có thể đứng vững và ngày càng phát triển, kế thừa những kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời với việc phát triển, hội nhập kinh tế thế giới, thì việc xây dựng chiến lược ngoại giao đúng đắn của Việt Nam song song với việc củng cố nền quốc phòng toàn dân, nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đất nước luôn luôn cần được chú trọng, cần được coi là nhiệm vụ cấp thiết và dốc sức thực hiện thành công.

Tải bài viết tạiWeb NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
 


[1] Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 204
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập 28, tr. 170.
 [3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 10, tr.516.