28/10/14

TRUNG QUỐC ĐÁNH CHIẾM HOÀNG SA CỦA VIỆT NAM & TRÁCH NHIỆM CỦA MỸ

LÊ TÙNG LÂM
                                                                       Bài đăng trên Tạp chí Hồn Việt, số tháng 9/2014                                                                                         
                                                               
                                       HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM

Text Box:  
Đại Nam nhất thống toàn đồ (1834) đã có Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam
Hoàng Sa là mảnh đất thiêng liêng của tổ quốc Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những bằng chứng hiện hữu đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
 Trong sách Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư được phổ biến vào năm 1630, Đỗ Bá đã mô tả : “Giữa biển có một dãi cát gọi là Bãi Cát Vàng dài ước chừng 400 dặm, ngang 20 dặm, chạy dài từ cửa Ðại Chiêm đến cửa Sa Vinh”[1] ngoài khơi hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay, cách bờ biển khoảng 135 hải lý. Bãi Cát Vàng là tên gọi bằng chữ Nôm của quần đảo Hoàng Sa.
Ngoài ra, các tư liệu về sự phát hiện và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa cũng được ghi chép trong nhiều tác phẩm nổi tiếng.
Chẳng hạn, trong Phủ biên tạp lục (1775), Lê Quý Đôn đã viết : “Xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi gần bờ biển. Hướng Đông Bắc ngoài biển có nhiều đảo và nhiều núi linh tinh hơn 130 đỉnh…Ngày trước, họ Nguyễn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất lấy người ở xã An Vĩnh sung vào…Họ Nguyễn còn thiết lập thêm đội Bắc Hải[2] để quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Đại Nam thực lục cũng ghi nhận việc họ Nguyễn cử đội Hoàng Sa “đến tháng 3 thì đi thuyền ra (Hoàng Sa), độ 3 đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn để tìm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”[3]. Đây là nguồn tư liệu gốc quan trọng xác lập chủ quyền của các Chúa Nguyễn đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Đầu thế kỉ XIX, vương triều Nguyễn xác nhận rõ ràng hơn về chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Đại Nam thực lục ghi nhận rằng năm 1803, Gia Long “lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngữ cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi), sai mộ dân ngoại tịch làm đội Hoàng Sa”[4]. Năm 1834, Minh Mạng sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ[5]. Trên bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ đã ghi rõ ràng Hoàng Sa (số 1) và Trường Sa (số 2) là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Năm 1835, vua Minh Mạng “sai cai đội thủy quân Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến (Hoàng Sa) dựng miếu. Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong, 10 ngày làm xong rồi về”[6].

Đại Nam thực lục viết về Đội Hoàng Sa

Những tư liệu này là chứng cứ xác thực của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không những thế, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quân đảo này cũng được các nhà khoa học trên thế giới công nhận.
Text Box:  
Tấm bản đồ 106, có tên “Bản đồ xứ Đàng Trong” đã vẽ quần đảo Hoàng Sa cụ thể, chi tiết và chính xác
Năm 1827, Philippe Vandermaelen (1795 - 1869), nhà địa lý học, thành viên Hội Địa lý Paris, xuất bản bộ Atlas thế giới gồm 6 tập với 7 bản đồ chung về 5 châu lục. Trong tập 2 của Atlas, Việt Nam được giới thiệu thông qua các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110. Partie de la Cochinchine (Bản đồ xứ Đàng Trong) là tờ số 106, vẽ đường bờ biển miền Trung từ vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 16. Phía ngoài khơi, Paracels (tức Hoàng Sa) được vẽ khá chi tiết và chuẩn xác trong khoảng vĩ độ từ 16 đến 17 và kinh độ từ 109 đến 111[7]. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc mang tính quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.
Như vậy, đến đầu thế kỷ XIX, vương triều Nguyễn được thành lập và khẳng định chủ quyền của Việt Nam một cách đầy đủ, thật sự theo đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ được phương Tây thừa nhận, bản đồ phương Tây chính thức xác nhận quần đảo Paracels (Hoàng Sa) nằm trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam[8].
Các tài liệu của người Pháp, như quyển Mémoire sur la Cochinchine của Jean-Baptiste Chaigneau (1769-1852) và quyển Univers, Histoire et Description de tous les peuples (xuất bản vào năm 1833), đều thừa nhận “đảo Paracels mà người Việt gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm nhiều đảo san hô chằng chịt thuộc xứ Ðàng Trong cai quản, Hoàng đế Gia Long đã thân chinh vượt biển tiếp thu quần đảo vào năm 1816, chính ngài đã long trọng thượng cờ tại đó”[9].
Năm 1930, chính quyền Pháp tại Ðông Dương đã chính thức cắm cờ trên đảo và đến năm 1933 phái 3 chiếc tàu mang tên Alert, AstrobalDe Lanessan đến từng đảo một trong quần đảo Trường Sa (mà Pháp gọi là Spratley) để cắm cờ, thu nhận các đảo An Bang (Amboya Cay), Trường Sa (Spratley), Ba Bình (Itu Aba), Thị Tứ, Loại Ta[10]. Đây là những bằng chứng quan trọng về chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa va Hoàng Sa thời thuộc Pháp.
Ngày 7-9-1951, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố tại Hội nghị San Francisco (Mỹ) rằng “chủ quyền của chúng tôi trên tất các đảo Spatly (Trường Sa) và Paracels (Hoàng Sa) đã thuộc về Việt Nam từ mọi thời đại”[11]. Tuyên bố này không gặp phải bất kì một sự phản đối nào từ các nước. Nó cũng có nghĩa là các nước đã công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Ngày 13-7-1961, Tổng thống chính quyền Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh: “Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam…Một đơn vị hành chính xã bao gồm trọng quần đảo này được thành lập là lấy tên là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang” (Quảng Nam) [12].
Như vậy, những văn kiện trên là những chứng cứ xác thật và không thể chối cãi về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Thế nhưng, ngày 19-1-1974, Trung Quốc đã đem quân xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam.
                                                                                      Lê Tùng Lâm






TRUNG QUỐC ĐÁNH CHIẾM HOÀNG SA CỦA VIỆT NAM
& TRÁCH NHIỆM CỦA MỸ
                                                                                      Lê Tùng Lâm
Trường Đại học Sài Gòn

 Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa trước năm 1974
Text Box:  
Bản đồ Trung Quốc trong Atlas Thế giới năm 1827
Text Box:  
Đại Thanh nhất thống toàn đồ năm 1818
Mặc dù giới cầm quyền Bắc Kinh không ngừng rêu rao Hoàng Sa và Trường Sa là của họ, nhưng họ không thể đưa ra bất cứ một chứng cứ nào. Trong lịch sử, các triều đại phong kiến Trung Quốc đều xác nhận cương vực của Trung Hoa chấm dứt ở đảo Hải Nam. Thanh Sử Cảo cũng không đả động đến Hoàng Sa vàTrường
Sa. Các bản đồ chính thức do các Nhà nước phong kiến và dân quốc Trung Hoa vẽ như Hoàng dư toàn lãm đồ (1717), Đại Thanh nhất thống toàn đồ (1818), Trung Hoa Dân quốc toàn đồ v.v… đều xác định phần đất cực Nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam và không có đất đai nào khác ở trên Biển Đông. Tất cả các bản đồ của Trung Quốc từ đầu thế kỷ XX trở về trước cũng hoàn toàn thống nhất với bản đồ phương Tây, không hề vẽ lãnh thổ cực nam của Trung Quốc vượt xuống dưới vĩ độ 18[13].
Năm 1909, Lý Chuẩn được vua Thanh cử đến quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, lúc này Hoàng Sa đã không còn là một lãnh thổ vô chủ nữa. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình từ ít nhất là năm 1816. Mặt khác, Trong tập Atlas thế giới năm 1827 của Philippe Vandermaelen cũng không thừa nhận đều đó. Bản đồ Partie De La Chine (Bộ phận thuộc Trung Quốc) tờ số 98, trang 109, vẽ phần lãnh thổ cực nam của Trung Quốc bao gồm tỉnh Quảng Đông, đảo Hải
 
Trung Hoa Dân quốc toàn đồ, bản đồ chính thức của Trung Quốc từ 1911

Nam và ba cụm đảo ở phía đông đảo Hải Nam, chỉ giới hạn trong phạm vi phía bắc vĩ tuyến 180 B, mà không bao gồm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam[14]. Đây là chứng cứ khẳng định quần đảo Hoàng Sa không thuộc về Trung Quốc. Như vậy, các bản đồ của Nhà nước phong kiến Trung Quốc và thế giới đều thừa nhận cương vực cuối cùng của Trung Quốc là đảo Hài Nam chứ không hề có Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1935, trước những hành động của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Hoa Dân quốc (THDQ) đã cho xuất bản một bản đồ chính thức đầu tiên về các đảo trên Biển Đông (mà họ gọi là Nam Hải). Tuy nhiên, bản đồ này chưa thể hiện “đường lưỡi bò”. Tháng 1-1948,  Bộ Nội vụ THDQ công bố bản đồ các đảo trên Nam Hải, lần này có vẽ thêm một đường hình chữ U 11 đoạn thường được gọi là “đường lưỡi bò” bởi nó giống cái lưỡi bò liếm xuống biển Đông[15]. “Đường lưỡi bò” này bao trùm cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông là các quần đảo Hoàng Sa (Paracels), Trường Sa (Spratlys),  Pratas (Trung Quốc gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung Quốc gọi là Trung Sa). Thế nhưng, ngay từ lúc đầu, đường lưỡi bò này đã bộc lộ tính không chính xác, không ổn định, không được xác định tọa độ rõ ràng và không biểu thị là một đường biên giới quốc gia.
Năm 1946, trên tinh thần Tuyên bố CairoNghị quyết Potsdam, 4 tàu chiến của THDQ đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa với cớ giải giới quân Nhật. Ngày 7-1-1947, chính phủ THDQ tuyên bố họ đã chiếm giữ quần đảo Tây Sa, nhưng thực ra mới chỉ chiếm đảo Phú Lâm (Woody Island, mà họ gọi là đảo Vĩnh Hưng). Năm 1949, THDQ  rút khỏi đảo Phú Lâm. Pháp gửi quân Pháp-Việt trở lại giữ đảo.
Sau khi thành lập (1-10-1949), nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) tiếp tục thừa nhận bản đồ 1948 của THDQ. Tuy nhiên, CHNDTH chưa yêu sách các vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” như các vùng nước lịch sử. Tại Hội nghị San Francisco (9-1951), các quốc gia tham gia cũng đã khước từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[16]. Trong thực tế, “đường lưỡi bò” chưa bao giờ được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Mặt khác, đại diện của CHNDTH cũng không tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III[17] tại New York năm 1973. Do đó, những hành vi bí mật xâm lược trên không thể tạo nên cơ sở cho quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Theo Hiệp định Genève 21-7-1954, Việt Nam Cộng hòa (VNCH) quản lý quần đảo Hoàng Sa. Năm 1956, lực lượng hải quân VNCH  tiếp tục thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, đảo lớn nhất là Phú Lâm đã bị CHNDTH bí mật chiếm trước khi quân đội VNCH ra đóng giữ.
Năm 1958, Điều 1 Tuyên bố về lãnh hải của CHNDTH đã nhấn mạnh rằng: “Chiều rộng lãnh hải nước CHNDTH là 12 hải lý. Điều khoản này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước CHNDTH, bao gồm lục địa Trung Quốc và các đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Đài Loan và xung quanh đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc bị phân cách với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả”[18]. Như vậy, tuyên bố năm 1958 của CHNDTH cũng không thể bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo như “đường lưỡi bò” đã công bố của họ.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân Trung Quốc và Hải quân VNCH chạm súng nhiều lần trên hải phận Hoàng Sa, nhưng không đưa đến thương vong. Trong thời điểm đó, VNCH cũng thiết lập một sân bay nhỏ tại đảo Hoàng Sa. Mặc dù CHNDTH đã chiếm đóng trái phép tại hai đảo Phú Lâm và Linh Côn trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do chính quyền VNCH nắm giữ.

2. Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa (1974) và trách nhiệm của người Mỹ
Âm mưu xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc đã có từ thời THDQ nhưng nó chưa thực hiện được. Đến cuối những năm 60 của thế kỉ XX, giới cầm Bắc Kinh nhận thấy thời cơ để đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam đã đến vì:
1- Từ năm 1967, Richard Nixon – sau này là tổng thống của Mỹ - kêu gọi thừa nhận “thực tại Trung Quốc” và thực hiện đường lối lôi kéo Trung Quốc vào cộng đồng thế giới với tư cách là “một quốc gia hùng mạnh và tiến bộ chứ không phải là tâm điểm của cách mạng thế giới”[19]. Do đó, Washington bắt đầu những động thái xích lại gần với Trung Quốc.
2- Năm 1970, Đô đốc Elmo Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ, tuyên bố tại Guam rằng Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo tiền đồn của Hạm đội 7 Mỹ. Theo nhận định của chính giới VNCH lúc đó, đây là sự trao đổi quyền lợi giữa Mỹ và Trung Quốc và là nguy cơ cho VNCH trong việc bảo vệ Hoàng Sa[20]. Rõ ràng tuyên bố trên của Mỹ là một sự nhân nhượng có toan tính của Mỹ trong chính sách đối ngoại với Trung Quốc. Sự “bỏ rơi” Hoàng Sa và Trường Sa của Mỹ đã tạo cho Bắc Kinh có cơ hội để tiếp tục thực hiện các hành động lấn chiếm ở đây.
3- Năm 1972, Richard Nixon (lúc này đã vào Nhà Trắng) cùng cố vấn Henry Kissinger và ngoại trưởng William Rogers sang thăm chính thức Trung Quốc. Ngày 28-2-1972, Mỹ và Trung Quốc đã ký Thông cáo chung Thượng Hải và xác định sự ủng hộ của Mỹ đối với CHNDTH. Đồng thời, Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố chung phản đối "bá quyền" tại châu Á và Thái Bình Dương. Rõ ràng, chuyến viếng thăm Trung Quốc của R.Nixon làm cho những “hiểu lầm” trong quan hệ Trung-Mỹ đã được tháo bỏ. Đây là cơ sở quan trọng cho những hoạt động của Bắc Kinh trong giai đoạn sau. Năm 1973, Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc ở thủ đô mỗi nước mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
4- Tháng 1-1973, Mỹ ký Hiệp định Paris và rút quân đội ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Đồng thời Hạm đội 7 cũng được rút ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Trong thực tế, Mỹ “bỏ rơi” Hoàng Sa, xem việc bảo vệ quần đảo này là việc riêng của VNCH.
5- Đầu năm 1974, VNCH phải đối mặt với hàng loạt khó khăn về tài chính, quân sự khi Mĩ rút quân theo Hiệp định Paris. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã mở nhiều cuộc tiến công ở Khu V và Nam Bộ.
Việc Mỹ “bỏ rơi” Hoàng Sa và làm ngơ trước các hành động của Trung Quốc đã tạo điều kiện cho Trung Quốc tiến tới chiếm toàn bộ Hoàng Sa vì “nếu chậm chân, họ (TQ) sẽ khó làm được điều đó sau khi Việt Nam thống nhất[21]”. Do đó, để có cớ xâm lược Hoàng Sa, ngày 11-1-1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố : Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo VNCH chiếm đóng bất hợp pháp[22]. Đồng thời, “để làm hậu thuẫn cho những lời tuyên bố vô căn cứ, Trung Quốc tung nhiều tàu đánh cá võ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ quân giả dạng ngư phủ lên các đảo không có lực lượng quân đội VNCH đóng” [23].
Sau đó, Đêm 17-1-1974, Chu Ân Lai cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa[24]. Mao Trạch Đông phê : “Đồng ý ! Trận này không thể không đánh”. Mao Trạch Đông giao cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực tiếp chỉ huy trận đánh tại quần đảo Hoàng Sa[25]. Như vậy từ đầu, giới cầm quyền Bắc Kinh đã thống nhất với nhau về mục tiêu trong việc xâm chiếm Hoàng Sa.
Ngày 18-1-1974, Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc để thảo luận tình hình Hoàng Sa và lập ra ban chuyên trách năm người phụ trách kế hoạch đánh Hoàng Sa - mà phía Trung Quốc gọi là “Cuộc phản kích Tây Sa” để tuyên truyền trong nước và che mắt dư luận quốc tế. Các lãnh đạo cấp cao gồm Diệp Kiếm Anh - Chủ nhiệm Ban chuyên trách, cùng Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình và Trần Tích Liên đã nghe Tô Chấn Hoa, Phó Tư lệnh Hải quân, báo cáo tình hình và đề nghị tấn công[26]. Ban chuyên trách công bố bản hướng dẫn nhằm đánh lại các tuần dương hạm của VNCH. Căn cứ vào bản hướng dẫn này, hải quân Trung Quốc lập kế hoạch chuẩn bị cho chiến dịch[27].
Sáng ngày 19-1-1974, hồi 10 giờ 20, một hộ tống hạm Trung Quốc thuộc loại Kronstadt bắn vào khu trục hạm Trần Khánh Dư mang số HQ-4 của VNCH. Để tự vệ, các chiến hạm VNCH đã phản pháo và gây hư hại cho hộ tống hạm Trung Quốc. Cuộc giao tranh gây thiệt hại về nhân mạng và vật chất cho cả đôi bên[28]. Trong khi chiến sự đang diễn ra tại Hoàng Sa, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình và Tô Chấn Hoa báo cáo lên Mao Trạch Đông đề nghị cho phép quân đội Trung Quốc chiếm tất cả các đảo do VNCH kiểm soát. Mao đã chấp thuận đề nghị này[29]. Như vậy, hành động xâm lược trắng trợn của Trung Quốc đã đánh tan luận điểm xuyên tạc về việc “bảo vệ chủ quyền” – cái mà Trung Quốc chưa từng có tại Hoàng Sa.

Khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư

Không chấp nhận việc Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra Tuyên bố khẳng định chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc, mọi tranh chấp về biên giới và lãnh thổ giữa các nước có liên quan phải được giải quyết bằng thương lượng trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt.
Trong khi đó,  VNCH tìm cách đánh bại và giành lại chủ quyền từ Trung Quốc bằng hai con đường như sau:
Đấu tranh bằng con đường ngoại giao
Trước hành động ngang nhiên xâm lược của Trung Quốc, ngay trong ngày 19-1-1974, Bộ Ngoại giao VNCH đã ra Tuyên bố một mặt khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, mặt khác nêu rõ “các hành động quân sự của Trung Cộng là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ VNCH, và một lần nữa vạch trần chánh sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo đuổi”[30].
 Ngày 20-1-1974, VNCH đã chính thức gửi thư đến Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc (HĐBA.LHQ), yêu cầu triệu tập cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an để xem xét hành động xâm lược của Trung Quốc “nhằm thực hiện các hành động khẩn cấp để sửa chữa tình hình và chấm dứt việc xâm lược” [31]. Thế nhưng, thái độ của Mỹ đã làm cản trở quá trình đấu tranh của VNCH.
Trước diễn biến phức tạp này, cũng trong ngày 20-1-1974, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - Graham Martin đã gởi một bức điện về cho Bộ Ngoại giao Mỹ và nêu rõ rằng “Trung Quốc không đơn giản tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm chiếm quần đảo” [32]. Do đó, Martin đã đề nghị Washington hãy cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy mạnh các bước đi trong lĩnh vực ngoại giao.
Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ muốn bảo vệ mối quan hệ với Trung Quốc hơn là với một đồng minh đã hết thời. Các nhà ngoại giao Mỹ tại Hội đồng Bảo an tỏ ra bi quan về việc đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an bởi Trung Quốc là một thành viên thường trực của cơ quan này trong khi VNCH chỉ là quan sát viên của LHQ nên không chấp nhận để VNCH đưa vần đề Hoàng Sa ra Liên Hiệp Quốc.
Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc John A. Scali nhận định rằng việc “đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an sẽ gây ra rắc rối rõ ràng và nghiêm trọng cho chúng ta. Phía Việt Nam có vẻ như không có cơ hội đạt được một quyết định thuận lợi từ Hội đồng Bảo an và có ít triển vọng đạt được bất kỳ lợi thế nào” [33]. Do đó, John A. Scali cho rằng “tình thế của chúng ta sẽ cực kỳ bất tiện ngay cả khi Việt Nam có quyền hợp pháp hiển nhiên với quần đảo tranh chấp. Trong tình cảnh hiện tại, chúng ta sẽ tìm cách trì hoãn tiến trình của Hội đồng Bảo an. Điều này sẽ giúp phái bộ VNCH có thời gian thăm dò trực tiếp các thành viên Hội đồng Bảo an và báo cáo kết quả về cho Sài Gòn”. Rõ ràng, người Mỹ đã không tích cực ủng hộ cho giải pháp ngoại giao của VNCH và còn trì hoãn nó. Thái độ này của Mỹ đã làm cho con đường đấu tranh ngoại giao của VNCH gần như rơi vào bế tắc. Trước những khó khăn đó, VNCH đã quyết định gửi thư đến Chủ tịch HĐBA Liên Hiệp Quốc Facio rút lại yêu cầu về việc triệu tập cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an. Ngày 25-1, Chủ tịch Facio thông báo Hội đồng Bảo an sẽ không nhóm họp để thảo luận vấn đề Hoàng Sa bởi VNCH đã rút lại yêu cầu.
Nhận định về vấn đề này, Chủ tịch Facio cũng nhận thấy rằng “Mỹ không thúc đẩy một cuộc họp của Hội đồng Bảo an và ông có cảm giác Mỹ không thực sự muốn có cuộc họp[34]. Các hồ sơ ngoại giao của Mỹ được giải mật trong thời gian qua đã gợi ý rằng “Washington đã chủ động bỏ rơi và gây sức ép buộc VNCH không được “manh động” trong vấn đề Hoàng Sa”[35]. Đồng thời, Washington và các đồng minh đã cố gắng thuyết phục VNCH không đưa vấn đề Hoàng Sa ra HĐBALHQ[36]. Dưới áp lực của Mĩ, VNCH đành phải từ bỏ ý định đưa vấn đề Hoàng Sa lên Liên Hiệp Quốc. Nhận định về thái độ này của Mỹ, một đại diện ngoại giao Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc mô tả rằng Washington đang bối rối trong việc lựa chọn ủng hộ “đồng minh cũ và người bạn mới” [37]. Như vậy, con đường đấu tranh bằng ngoại giao để buộc Trung Quốc dừng các hành động xâm lược Việt Nam đã bị chính người Mỹ - đồng minh “hôm qua” của VNCH - phá hoại.
Kế hoạch phản công bằng quân sự
Ngay sau khi Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc đã gặp Đại sứ Mỹ Graham Martin để thảo luận về “tình hình rất nghiêm trọng” tại quần đảo Hoàng Sa. Theo đó, VNCH đang chuẩn bị đánh Trung Quốc bằng không quân tại Hoàng Sa.
Sau khi giải pháp ngoại giao thất bại, ngày 14-2-1974, chính phủ VNCH đã ra Tuyên cáo và nêu rõ “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ VNCH. Chánh phủ và nhân dân VNCH không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy[38]. Do đó, một kế hoạch phản công được chuẩn bị công phu với khả năng chiến thắng là 100% đã được vạch ra. Theo đó, VNCH sẽ cho máy bay tấn công tàu Trung Quốc vì “họ đi ra Hoàng Sa của mình là bằng tàu thôi, mình mà diệt hạm đội này là họ cụt ngòi”. Máy bay sử dụng cho chiến dịch là loại F-5 và F-5E, loại có bình xăng phụ[39]. Đây là loại máy bay phát huy tốt trong điều kiện chiến đấu trên biển so với máy bay của Trung Quốc. Theo phi công Nguyễn Thành Trung, máy bay của VNCH sẽ “cất cánh từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa, tụi tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng. Cự ly từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng Không quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay về. Thế nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không có gì”[40].
Trong cuộc họp bàn phương thức tác chiến tại Đà Nẵng, VNCH cũng xác định “có 40 tàu Trung Quốc đang có mặt tại Hoàng Sa. Do đó, nhiệm vụ của các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi (Nguyễn Thành Trung-ND) đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc nào sống sót” [41]. Cũng theo Nguyễn Thành Trung, việc tái chiếm Hoàng Sa là hoàn toàn khả thi vì với sức mạnh áp đảo của không quân bao gồm 120 chiếc F-5 và F-5E đang chờ lệnh ở Đà Nẵng, mỗi máy bay đủ sức không chiến tại Hoàng Sa trong 20 phút thì chỉ cần sau 1 ngày là đánh chìm toàn bộ tàu Trung Quốc ở Hoàng Sa. Thế nhưng, kế hoạch này đã không được thực hiện do những phản ứng từ phía Mỹ.
Ngày 25-1-1974 và ngày 31-1-1974, H.Kissinger đã xác định “lập trường của Mỹ là không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây và Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở Hoàng Sa và Trường Sa”[42]. Đồng thời, Mỹ đã điều Hạm đội 7 Thái Bình Dương ra khỏi khu vực Hoàng Sa.  Rõ ràng, lập trường này đã minh chứng cho sự thay đổi trong chính sách đối với VNCH của Washington. Giải thích cho thái độ này, Washington cho rằng “Quốc hội Mỹ đã ra luật cấm Chính phủ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho VNCH nên họ không thể nào giúp VNCH bảo vệ Hoàng Sa trước sự tấn công của Trung Quốc[43]. Theo lời Nguyễn Thành Trung, việc này không được thực hiện do "Mỹ đã cảnh báo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không được hành động"[44]. Lúc bấy giờ, Mỹ đã làm lành với Trung Quốc và chấp nhận làm ngơ để Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa. Do đó, cuộc phản công bằng không quân của VNCH đã không diễn ra và Trung Quốc vẫn chiếm giữ trái phép Hoàng Sa của Việt Nam đến ngày hôm nay.
Như vậy, qua biến cố lịch sử Hoàng Sa năm 1974, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là Mĩ đã “bỏ rơi” Hoàng Sa và chấp nhận “làm ngơ” cho các hoạt động phi pháp của Trung Quốc tại đây. Không những thế, Mỹ còn gây sức ép về ngoại giao và cản trở về quân sự để không cho VNCH phản kháng lại đối với Trung Quốc. Sự kiện này đã minh chứng có sự bắt tay của Mỹ với Trung Quốc. Người Mỹ đã “bán đứng” đồng minh cũ để đổi lấy đồng minh mới và chính sự thực dụng này của Mỹ đã góp phần làm cho tình hình Biển Đông không ổn định.
Trận gió mà Mỹ gieo năm 1974 đã bị Trung Quốc lợi dụng, thổi bùng lên thành cơn bão khiến Mỹ phải gặt 40 năm sau.



[1] Bửu Cẩm và những người khác (1962), Hồng Đức bản đồ, Bộ Giáo dục Quốc gia xuất bản, Sài Gòn, tr.94
[2] Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lúc, Lê Xuân Giáo dịch, Phụ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.210-212.
[3] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Bản dịch của Viện Sử học, tập 1, NXB KHXH, Hà Nội, 1991, tr.164.
[4] Nguyễn Đình Đầu (2014), Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông và Hoàng Sa-Trường Sa, NXB ĐHQG TPHCM, tr.9.
[5] Nguyễn Đình Đầu (2014), sđd, tr.10.
[6] Nguyễn Đình Đầu (2014), sđd, tr.10.
[7] (GDVN) - Thêm bằng chứng từ bộ Atlas thế giới, Bruxelles - 1827 khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
[8] (GDVN) - Thêm bằng chứng từ bộ Atlas thế giới, tlđd..
[10] Journal Officiel de L'Indochine ngày 25 tháng 9 năm 1933, tr.7784.
[11] Nguyễn Đình Đầu (2014), sđd, tr.14-15.
[12] Nguyễn Đình Đầu (2014), sđd, tr.15.
[13] (GDVN) - Thêm bằng chứng từ bộ Atlas thế giới, tlđd.
[14] Nguồn: http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Tuoi-Tre-Cuoi-tuan/1059668529,Mot-tai-lieu-quy-chung-minh-chu-quyen-cua-Viet-Nam-doi-voi-quan-dao-Hoang-Sa.ttm
[15] Chi Kin Lo, China’s policy towards territorial disputes, tr. 43.
[16] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, 208, tr. 41.
[17] Yann Huei Songchina's "historic waters"in the south china sea:an analysis from taiwan, American Asian Review Vol. 12, N.. 4, Winter, 1994 (tr. 83-101)
[18] Daniel J. Dzurek, The Spratly Islands Dispute:Who's On First? International Boundaries Research Unit, Volume 2 Number 1, tr. 14.
[19] R. Nixon (1967), Asia After Vietnam, in Forgein Affairs, October, p 122.
[20] Hải Chiến Hoàng Sa, Bão biển Đệ Nhị Hải Sư, tác giả xuất bản, Australia, 1989, trang 101.
[21] Châu Minh Linh, Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa, nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140105/hai-chien-hoang-sa-40-nam-nhin-lai-6-1-2014.aspx.
[22]  Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, Báo Giáo dục Việt Nam.
[23] Châu Minh Linh, Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa, tlđd.
[24]  Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, Báo Giáo dục Việt Nam.
[25]  Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, Báo Giáo dục Việt Nam.
[26] Châu Minh Linh, Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa, tlđd.
[27] Quan hệ Trung Việt trước trận Hoàng Sa, Lý Hiểu Bình, BBC.
[28] Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19.1.1974,  Thanh Niên Online (giới thiệu), Nguồn:  http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/hai-chien-hoang-sa-tuyen-cao-cua-bo-ngoai-giao-vnch-ngay-19-1-1974.aspx
[29]  Quan hệ Trung Việt trước trận Hoàng Sa, Lý Hiểu Bình, BBC
[30] Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19.1.1974,  Thanh Niên Online (giới thiệu), Nguồn:  http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/hai-chien-hoang-sa-tuyen-cao-cua-bo-ngoai-giao-vnch-ngay-19-1-1974.aspx
[31] Sơn Duân (2014), Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/ho-so-ngoai-giao-my-ve-hai-chien-hoang-sa-ky-2-hoang-sa-o-hoi-dong-bao-an-lhq.aspx.
[32] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd
[33] Sơn Duân (2014), Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, tlđd.
[34] Sơn Duân (2014), Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, tlđd.
[35] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140106/ho-so-ngoai-giao-my-ve-hai-chien-hoang-sa-ky-1-ban-co-nuoc-lon.aspx.
[36] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd.
[37] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd

[38] Tuyên cáo ngày 14.2.1974 của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Thanh Niên online (giới thiệu), Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/hai-chien-hoang-sa-tuyen-cao-ngay-14-2-1974-cua-chinh-phu-viet-nam-cong-hoa.aspx.

[39] Đỗ Hùng - Tấn Tú (2014), Không quân Việt Nam Cộng hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa, tlđd
[40] Đỗ Hùng - Tấn Tú (2014), Không quân Việt Nam Cộng hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa, tlđd.
[41] Đỗ Hùng - Tấn Tú (2014), Không quân Việt Nam Cộng hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa, tlđd.
[42] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd.
[43] Hoàng Sa: Góc nhìn từ dinh ông Thiệu, BBC online, 17 tháng 1, 2014.
[44] Đỗ Hùng - Tấn Tú (2014), Không quân Việt Nam Cộng hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa, tlđd.