9/10/21

NƯỚC MỸ THỜI KÌ NỘI CHIẾN

NHỮNG SỰ KIỆN CƠ BẢN     Tháng 11-1860, Abraham Lincoln – Đảng Cộng hòa đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.       Ngày 4-2-1861, nhà nước Hợp bang miền Nam Hoa Kỳ được thành lập do Jefferson Davis (Mississippi) làm Tổng thống.     Ngày 1-1-1863, Tổng thống Liên bang - Abraham Lincoln công bố “Tuyên bố Giải phóng Nô lệ”.          Tháng 7-1863, quân Liên bang do Tướng Meade chỉ huy đánh bại quân Hiệp bang trong trận chiến Gettysburg. Tướng Ulysses S.Grant kiểm soát toàn bộ vùng Mississippi.         Ngày 9-4-1865, Tướng Lee (Hiệp bang) đã đầu hàng Tướng Grant tại Appomattox Courthouse, đánh dấu cuộc nội chiến kết thúc.        Ngày 14-4-1865, Tổng thống A.Lincoln bị ám sát.                     Tháng 12-1865, Quốc hội bỏ phiếu phê chuẩn việc bãi bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ ở miền Nam.

Nước Mỹ thời kì nội chiến

Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được thắng lợi. Nước Hợp Chúng quốc Mỹ (Hoa Kỳ) đã ra đời nhưng Hiến pháp 1787 vẫn công nhận sự tồn tại của chế độ nô lệ. Chủ nô đã đưa đại diện của mình lên làm Tổng thống trong nhiều nhiệm kì và nhờ đó đã bảo vệ được chế độ nô lệ đồn điền ở miền Nam. Đến những năm 50 của thế kỉ XIX, kinh tế Mỹ chủ yếu phát triển theo hai con đường: công thương nghiệp của miền Bắc và kinh tế đồn điền sử dụng chủ yếu là nô lệ ở miền Nam. Điều này tạo ra sự phát triển không đều giữa hai miền Nam – Bắc của Mỹ

Nguồn gốc nội chiến

Thứ nhất, sự phát triển không đều giữa hai miền Nam – Bắc của Mỹ trong nửa đầu thế kỉ XIX. Miền Bắc có những điều kiện thuận lợi để phát triển (một vùng đất rộng lớn, tài nguyên phong phú, tàn dư phong kiến không nặng nề như châu Âu, có nguồn lao động bổ sung dồi dào do dân di cư từ châu Âu đến có kĩ thuật và cần cù lao động, thừa hưởng thành tựu cách mạng kĩ thuật của châu Âu đặc biệt là cách mạng công nghiệp Anh) đã giành được nhiều thành tựu trong sự phát triển sản xuất, như: trong công nghiệp nhẹ, công nghiệp đường sắt, ngành khai mỏ, luyện kim, giao thông vận tải… đến năm 1850, giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt quá giá trị sản lượng nông nghiệp. Mặt khác, nền nông nghiệp trại chủ nhỏ chiếm ưu thế sản xuất phục vụ thị trường công nghiệp. Nhưng con đường phát triển nông nghiệp kiểu tư bản Mỹ không thể dung nạp chế độ nô lệ đồn điền miền Nam và bản thân những người nô lệ sẽ đấu tranh đòi giải phóng.

Ngược lại, ở miền Nam, nền nông nghiệp nằm trong tay các chủ đồn điền lớn dựa trên sự bóc lột nô lệ da đen. Những năm 50 của thế kỉ XIX, kinh tế đồn điền ở miền Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng do: chủ nô không cải tiến công cụ, không cải tạo đất đai và vắt máu nô lệ. Thêm vào đó, chế độ nô lệ ngăn trở những người di dân da trắng tự do vào miền Nam. Điều đó cho thấy, sự tồn tại của chế độ nô lệ ảnh hưởng đến cơ sở phát triển công nghiệp.

Thứ hai, mâu thuẫn về chính sách thuế quan giữa hai miền. Chính sách thuế là vấn đề cơ bản trong sự khác biệt và đối lập giữa hai miền Nam – Bắc. Trong khi chủ công nghiệp miền Bắc muốn bảo đảm thị trường quan thuế nội địa để bảo vệ và khuyến khích nền công nghiệp trong nước thì ngược lại, chủ nô miền Nam đóng chặt thị trường không cho hàng hoá miền Bắc vào, nhưng lại mở cửa nhập hàng hoá của Anh. Chính điều đó tạo ra mâu thuẫn không tránh khỏi giữa hai miền.

Thứ ba, mâu thuẫn về mục tiêu trong chính sách mở rộng về miền Tây. Miền Tây của Mỹ là khu vực rộng lớn. Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp, chủ nô miền Bắc muốn đi về phía Tây để trồng ngô, lúa mì và nuôi gia súc…nhằm phục vụ cho sản xuất công nghiệp và biến vùng này thành vùng hậu cần cho công nghiệp. Thế nhưng, chủ nô miền Nam muốn đi về hướng Tây, tìm vùng đất mới thay thế vùng đất bạc màu ở miền Nam, tiếp tục phát triển chế độ đồn điền nô lệ ở đó. Sự khác biệt, đối lập về mục tiêu làm cho mâu thuẫn giữa chủ nô miền Bắc và miền Nam ngày càng sâu sắc hơn.

Như vậy, đến những năm 50 – 60 của thế kỉ XIX, vấn đề khai thác miền Tây và khuynh hướng phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa đã không cho phép chế độ nô lệ ở miền Nam tồn tại. Do nhu cầu phát triển kinh tế, chế độ nô lệ lạc hậu ở miền Nam cần được xóa bỏ. Nô lệ phải được tự do để giải phóng sức lao động, cung cấp nhân lực cho nền sản xuất công nghiệp. Vì vậy, nhiệm vụ xóa bỏ chế độ nô lệ ở miền Nam đang trở thành vấn đề cấp bách của Mỹ.

 


Nội chiến bùng nổ

Ngay từ năm 1858, xung đột giữa miền Bắc và miền Nam nước Mỹ về vấn đề chế độ nô lệ đã khiến cho các nhà lãnh đạo miền Nam thảo luận về việc tách khỏi Hợp Chúng Quốc. Đến năm 1860, đa số các bang theo chế độ nô lệ đã công khai đe doạ sẽ ly khai nếu Đảng Cộng hòa - đảng chống chế độ nô lệ, chiến thắng trong bầu cử Tổng thống. Nhưng cuối cùng, trước một Đảng Dân chủ chia rẽ, Abraham Lincoln – Đảng Cộng hòa đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11-1860. Bang Nam Carolina ngay lập tức bắt đầu tiến trình ly khai khỏi Nhà nước liên bang. Ngày 20-12-1860, cơ quan lập pháp của Nam Carolina thông qua “Pháp lệnh ly khai” (Ordinance of Secession) và tuyên bố rằng “Liên bang hiện đang bao gồm Nam Carolina và các bang khác, tồn tại dưới tên Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ, đã bị giải tán” và chuẩn bị chiếm đóng các pháo đài, kho vũ khí, và các địa điểm chiến lược khác trong tiểu bang”[1]. Đây là phản ứng đầu tiên của các bang miền Nam khi A.Lincoln đắc cử tổng thống.

Hành động của Nam Carolina đã được một số bang khác ở miền Nam ủng hộ. Ngày 4-2-1861, tại Montgomery (Alabama), đại biểu 6 bang: Nam Carolina, Mississippi, Florida, Alabama, Georgia, và Louisiana đã tập hợp để thành lập một nhà nước mới: Hợp bang miền Nam Hoa Kỳ (Confederate States of America). Ngày 9-2-1861, Jefferson Davis của Mississippi được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hợp bang. Đến tháng 3-1861, Texas đã gia nhập Hợp bang. Như vậy, gần như toàn bộ miền Nam đều nằm trong nhà nước Hợp bang. Quân đội của Liên bang chỉ còn giữ được các pháo đài Sumter ở Nam Carolina, Pickens ngoài bờ biển Florida, và một số tiền đồn nhỏ ở miền Nam. Ngày 12-4-1861, pháo binh Hợp bang dưới quyền Tướng P.G.T. Beauregard nổ súng vào Pháo đài Sumter, cuộc nội chiến chính thức bùng nổ. Trong vòng hai tháng, Virginia, Arkansas, Bắc Carolina, và Tennessee đã tham chiến cùng phe với Hợp bang. Như vậy, Hợp bang đã mở rộng lên thành 11 bang với dân số khoảng 9 triệu dân, bao gồm cả nô lệ.


Trong khi đó, lực lượng liên bang gồm 23 bang với dân số khoảng 22 triệu người. Sự vượt trội về công nghiệp đã cung cấp cho miền Bắc các thiết bị chế tạo vũ khí và đạn dược, quần áo và các đồ cung cấp khác. Mạng lưới đường sắt ở miền Bắc cũng có ưu thế vượt trội so với miền Nam. Thế nhưng, trong giai đoạn đầu cuộc chiến, quân đội Liên bang cũng gặp rất nhiều khó khăn, thử thách.

Tại Virginia quân đội Liên bang tiếp tục gặp hết thất bại này đến thất bại khác. Trong khi tiếp tục những nỗ lực đẫm máu nhằm chiếm được Richmond, thủ đô của phe ly khai, các lực lượng Liên bang liên tục bị đẩy lùi. Phe ly khai có lợi thế phòng thủ lớn là vô số những dòng sông, suối cắt ngang con đường nối Washington và Richmond. Hai viên tướng giỏi nhất, Robert E.Lee và Thomas J.Jackson tỏ ra vượt trội hơn về khả năng so với các vị tư lệnh chỉ huy quân đội liên bang thời kỳ đầu. Trận đánh lớn đầu tiên trong Nội chiến diễn ra tại Bull Run (bang Virginia) vào tháng 7-1861. Quân Liên bang đã thất bại và bị đầy lùi. Tổng thống Lincoln ngay lập tức bổ nhiệm George McClellan chỉ huy quân Liên bang. Năm 1862, McClellan đưa quân đội Liên bang tấn công vào Richmond – Thủ phủ của Hiệp bang nhưng không thành công. Quân Liên bang trong thời kì đầu liên tiếp gặp nhiều khó khăn, thất bại. Sau thất bại trong cuộc chiến đẫm máu ở Antietam, McClellan bị cắt chức, George Meode được cử thay thế để chỉ huy quân Liên bang.

Tuy nhiên, về mặt hải quân thì Liên bang vượt trội hơn so với Hiệp bang. Do đó, Tổng thống Lincoln đã cho hải quân bao vây các bờ biển miền Nam nhằm ngăn chặn được những chuyến tàu chở bông đi châu Âu và cắt đứt việc nhập khẩu vũ khí đạn dược, quần áo và đồ y tế mà miền Nam đang cần đến. Đến năm 1863, Liên bang gần như cắt đức được liên lạc của Hợp bang với các nước châu Âu. Mặt khác, một sự kiện quan trọng góp phần tạo ra bước chuyển của cuộc chiến tranh là việc Tổng thống Lincoln công bố “Tuyên bố Giải phóng Nô lệ”, ký ngày 1-1-1863. Theo đó, Lincoln cam kết trả tự do cho mọi nô lệ ở Hợp bang. Tuyên bố này “đã biến cuộc nội chiến thành cuộc thập tự chinh chống chế độ nô lệ”[2]. Người da đen gia nhập vào quân Liên bang rất nhiều. Quân đội Liên bang đã tuyển mộ và huấn luyện các trung đoàn lính da đen và đội quân này đã chiến đấu xuất sắc trong các trận chiến đấu từ Virginia tới Mississippi. Khoảng 178.000 người Mỹ gốc Phi đã phục vụ trong các Binh chủng hỗn hợp của Mỹ, và 29.500 người da đen phục vụ trong lực lượng Hải quân Liên bang. Tuyên ngôn này cũng làm cho Anh – quốc gia đã bãi bỏ chế độ nô lệ, không đứng về phe Hiệp bang, nơi cung cấp phần lớn bông vải cho ngành dệt của Anh. Rõ ràng, những sự kiện này đã mang lại nhiều thơi thế cho phe Liên bang.

Từ năm 1863, quân đội Liên bang từng bước phản công và giành những thắng lợi quyết định. Tháng 7-1863, Tướng Lee (Hiệp bang) quyết định cho quân tấn công Pennsylvania nhằm giành thắng lợi quyết định. Trong trận chiến Gettysburg (từ ngày 1 đến ngày 4-7-1863), quân đội của Tướng Lee đã bị quân Liên bang do Tướng Meade chỉ huy đánh tan tát. Tướng Lee đưa quân về Virginia và cố thủ tại đây cho đến tàn cuộc chiến. Thất bại này là một thảm họa đối với quân Hiệp bang vì “1/3 số quân Hiệp bang thương vong trong tình hình không còn quân dự bị. Hi vọng giành lại thế chủ động và xoay chuyển cục diện của tướng Lee hoàn toàn tiêu tan”[3].

Trong khi đó, ngày 4-7-1863, Tướng Ulysses S.Grant – người được Tổng thống Lincoln bổ nhiệm làm Tổng Tư lệnh toàn bộ các lực lượng quân đội Liên bang, chỉ huy quân Liên bang tấn công và chiếm được Vicksburg và kiểm soát toàn bộ vùng Mississippi. Năm 1864, ông đưa quân đến Richmond và chiếm được thủ phủ phe Hiệp bang (tháng 3-1865), cùng lúc đó, Tướng William Tecumseh Sherman đánh chiếm bang Georgia. Sherman dùng chiến thuật giỏi hơn nên đánh bại một số đội quân nhỏ hơn của phe ly khai và chiếm được thủ phủ Atlanta. Sau đó, ông hành quân tới bờ Đại Tây Dương, trên đường đi ông cho phá hủy một cách hệ thống các đường sắt, nhà máy, kho hàng và những phương tiện khác. Đến tháng 2-1865, ông đã chiếm Charleston ở Nam Carolina. Bây giờ, Hiệp bang không còn đủ tài lực, nhân lực để chiến đấu với quân Liên bang nữa. Ngày 9-4-1865, Tướng Lee đã đầu hàng Tướng Grant tại Appomattox Courthouse, đánh dấu cuộc nội chiến kết thúc. Tuy nhiên, những lễ hội ăn mừng chiến thắng của quân Liên bang đã phải đột ngột chấm dứt khi Tổng thống A.Lincoln bị ám sát ngày 14-4-1865.

Cuộc nội chiến kết thúc với thắng lợi cho quân đội Liên bang. Sau khi Lincoln bị ám sát, Phó tổng thống Andrew Johnson lên kế vị và thực hiện cuộc cải tổ ở miền Nam, mở rộng quyền dân sự cho người da đen và ngăn phe Hiệp bang trước đây giành lại quyền lực. Tháng 12-1865, Nghị viện đã bỏ phiếu phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi thứ 13 của Hiến pháp (Tu Chính Án 13) về việc bãi bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ ở miền Nam. Như vậy, những cản trở sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ đã từng bước bị xóa bỏ. Đến năm 1870, Hiến pháp Mỹ thừa nhận quyền bầu cử của tất cả nam giới không kể màu da. Như vậy, chế độ nô lệ được xoá bỏ. Việc bãi bỏ chế độ nô lệ đã tạo điều kiện cho Mỹ phát triển nhanh chóng trong 30 năm sau đó. Vì vậy, có thể xem cuộc nội chiến là cuộc Cách mạng tư sản lần thứ hai ở Mỹ vì nó tạo ra quá trình chuyển biến mạnh mẽ trong nông nghiệp theo con đường tư bản chủ nghĩa. Con đường phát triển tư bản kiểu Mỹ trong nông nghiệp được mở rộng, cơ sở cho sự phát triển công nghiệp được tạo nên một cách đầy hứa hẹn. Nhờ vậy, cuối thế kỉ XIX, Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp, nhanh chóng đưa nước Mỹ lên vị trí hàng đầu của các nước tư bản trên thế giới.



[1] States meet to form Confederacy, source: http://www.history.com/this-day-in-history/states-meet-to-form-confederacy.

[2] Patricia S. Daniels Stephen G. Hyslop (2007), Lược sử thế giới, NXB Từ điển Bách khoa, tr.377.

[3] Patricia S. Daniels Stephen G. Hyslop (2007), Lược sử thế giới, NXB Từ điển Bách khoa, tr.378.

Sự thành lập Hợp chúng quốc Mỹ (Hoa Kỳ)

1. Sự thành lập Hợp chúng quốc Mỹ (Hoa Kỳ)

Những thành tựu của phát kiến địa lý ở thế kỷ XV, XVI đã tìm ra Bắc Mỹ, là vùng đất được gọi là “Tân thế giới”. Đầu thế kỷ XVI mở đầu cho “cơn sóng nhập cư khổng lồ” từ châu Âu sang Bắc Mỹ. Vùng Bắc Mỹ bị coi như là “vùng đất vô chủ” nên các nước châu Âu giành nhau xâm chiếm. Lần lượt Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan, Thuỵ Điển… đem quân đội và dân di cư sang xâm chiếm, xây dựng cơ sở ở vùng đất mới. Tuy nhiên, chiến thắng cuối cùng thuộc về Anh.

Những người Anh di cư đầu tiên đến Bắc Mỹ vào cuối thế kỷ XVI. Công cuộc di thực của Anh đến vùng đất mới được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi sự phá sản của nông dân sau cuộc cách mạng ruộng đất ở Anh.

Đến năm 1752, Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa từ bờ biển Đại Tây Dương đến dãy núi Appalachia. Quá trình di dân từ châu Âu sang Bắc Mỹ cũng là quá trình xâm lược và tiêu diệt thổ dân Indians, đưa nô lệ da đen từ châu Phi sang khai phá đồn điền.

*Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Bắc Mĩ:

Trong các thế kỷ XVII, XVIII, các vùng thuộc địa ở Bắc Mỹ đã trở thành nơi cung cấp lương thực và nguyên liệu cho chính quốc. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển ở vùng đất thuộc địa đã xuất hiện những mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa.


Trong nông nghiệp: thực dân Anh bóc lột về nông nghiệp dựa trên sức lao động chủ yếu của nô lệ và dân nghèo làm thuê. Quý tộc tư sản Anh trở thành các đại địa chủ, chủ đồn điền ở Bắc Mỹ. 

Tầng lớp đại địa chủ đem ruộng đất phát canh thu tô với những điều kiện nặng nề. Để chống sự bóc lột tàn khốc, nông dân rời bỏ ruộng đất kéo nhau đi làm ăn ở vùng đất phía Tây. Họ trở thành những người nông dân tự do có quyền tư hữu ruộng đất và thoát khỏi sự ràng buộc của những tàn dư phong kiến. Trong các đồn điền ở phía Nam, chủ đồn điền gia tăng sự bóc lột tàn bạo nô lệ, đẩy nhanh quá trình tích luỹ tư bản ở Bắc Mỹ. Cho nên về cơ bản, kinh tế đồn điền ở Bắc Mỹ là nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản và chủ đồn điền - chủ nô chỉ là một mà thôi.

Sự phát triển kinh tế công - thương nghiệp ở Bắc Mỹ cũng phát triển theo hướng Tư bản chủ nghĩa. Đến thế kỷ XVIII, công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa ở Bắc Mỹ đang trên đà phát triển. Các công trường thủ công tập trung và phân tán ở một số nơi, sự tiến bộ về kỹ thuật đã đưa sản xuất lên trình độ máy móc, nhất là ngành đóng tàu và đóng đồ gỗ ở các thuộc địa duyên hải. Công nghiệp dệt tơ, dệt vải, đường, giấy, nấu rượu được mở mang nhanh chóng.

   Sự phát triển nhanh chóng các ngành công thương nghiệp của Bắc Mỹ làm cho giai cấp thống trị Anh lo ngại. Nhiều đạo luật được ban hành nhằm ngăn chặn sự phát triển kinh tế ở Bắc Mỹ dẫn tới làn sóng bất mãn trong tầng lớp tư sản ở thuộc địa và chủ đồn điền. Mâu thuẫn về kinh tế giữa thuộc địa và chính quốc ngày càng sâu sắc và trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến tranh giành độc lập.

1.2.3.2. Nguyên nhân, diễn biến chính của cách mạng

* Nguyên nhân:

Chính sách thống trị của Anh: đi đôi với những chính sách cản trở về kinh tế, giai cấp thống trị Anh còn thi hành nhiều biện pháp chính trị nhằm ngăn cản sự liên kết giữa các thuộc địa. Áp dụng chính sách “chia để trị” 13 thuộc địa ở Bắc Mỹ có chế độ khác nhau và hình thức thống trị khác nhau nhưng các thuộc địa đều phải tuân theo luật lệ của nước Anh.

Sự hình thành dân tộc tư sản Bắc Mỹ: một trong những yếu tố quyết định sự hình thành dân tộc Bắc Mỹ chính là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhờ đó, nó có khả năng tự chủ tăng cường mối liên hệ với nhau và hình thành thị trường dân tộc. Sự trao đổi buôn bán giữa các thuộc địa, sự thống nhất về giá cả, tín dụng và luật lệ mậu dịch, việc xây dựng đường sá, thiết lập trạm bưu điện, tăng cường sợi dây liên hệ giữa các địa phương, tạo điều kiện cho nó trở thành một khối cộng đồng kinh tế - trên cơ sở đó quan hệ giữa nhân dân các khối thuộc địa ngày càng gắn bó, có chung một yêu cầu chính trị và đoàn kết tương trợ nhau. Cùng với sự phát triển kinh tế, là sự phát triển văn hóa, sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chung… Yêu cầu bức thiết của 13 thuộc địa là được tự do phát triển sản xuất, buôn bán, mở mang kinh tế về phía Tây. Mặc dầu dùng mọi thủ đoạn kinh tế và chính  trị, giai cấp tư sản Anh vẫn không thể nào ngăn cản được sự hình thành của chủ nghĩa dân tộc ở Bắc Mỹ. Cộng đồng cư dân Bắc Mỹ cùng liên kết và ngày càng mong muốn thoát ly khỏi nước Anh.

Mâu thuẫn sâu sắc giữa thuộc địa và chính quốc: Sự lớn mạnh của sức sản xuất và sự phát triển của các thuộc địa làm cho mâu thuẫn giữa thuộc địa và các chính quốc ngày càng thêm gay gắt. Chế độ nô lệ da đen, sự bóc lột làm thuê da trắng, những nhân tố kinh tế phong kiến, chính sách thống trị chia rẽ và ngu dân  là những trở lực ngăn cản sự phát triển của Bắc Mỹ, gây nên làn sóng bất mãn trong các tầng lớp xã hội. Họ đấu tranh đòi ruộng đất, đòi độc lập về kinh tế và thống nhất về chính trị. Những chính sách của chính quốc không chỉ đối lập với quần chúng nhân dân mà còn va chạm nghiêm trọng tới quyền lợi của giai cấp tư sản và chủ đồn điền.

Nhằm ngăn ngừa sự lớn mạnh của công thương nghiệp ở các thuộc địa, chính phủ Anh đã ban hành nhiều đạo luật hết sức vô lý bởi vậy càng khoét sâu mâu thuẫn giữa thuộc địa Bắc Mỹ với chính quốc Anh. Đầu những năm 70 của thế kỷ XVIII, quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa trở nên hết sức căng thẳng. Chính phủ Anh tăng cường quân đội sang Bắc Mỹ và thi hành nhiều chính sách nghiêm ngặt. Nhiều nơi đã đứng dậy đấu tranh công khai chống lại quân đội Anh.

* Diễn biến chính:

Sự kiện Boston: Vụ đổ chè ở cảng Boston tháng 12/1773 là một sự kiện quan trọng đánh dấu một bước phát triển mới của tình hình. Cuối năm 1773, khi những chiếc tàu chở chè cập bến Boston thì những toán người Bắc Mỹ cải trang lọt vào bến tàu và xông lên ném những kiện chè xuống biển. Công ty Đông Ấn Anh bị thiệt 18 ngàn đồng bảng Anh trong vụ này. Bọn cầm quyền Anh ở London lợi dụng sự kiện đó chuyển sang tấn công, tuyên bố để tiến hành chiến tranh để “trừng phạt những người phiến loạn”. Mùa xuân năm 1774 cảng Boston bị đóng cửa, hàng hoá ngưng trệ, các nhà máy bị tê liệt. Hàng ngàn công nhân, thợ thủ công và ngư dân bị thất nghiệp. Sự kiện Boston trở thành mồi lửa để thổi bùng cuộc cách mạng của 13 bang thuộc địa.


Hội nghị lục địa lần thứ nhất từ ngày 5/9 - 26/10/1774 ở Philadenphia. Hội nghị thông qua bản “Tuyên ngôn về các quyền hạn” phản đối chế độ chuyên chế và đòi huỷ bỏ những trở ngại đối với công thương nghiệp, yêu cầu vua Anh bãi bỏ chính sách hạn chế công thương nghiệp. Đại hội thông qua quyết nghị tẩy chay hàng Anh. Vua Anh không những không chấp nhận bản tuyên ngôn mà còn ban hành những đạo luật cấm Bắc Mỹ buôn bán với các nước khác, cấm ngư dân đánh cá ven biển, tuyên bố các thuộc địa “nổi loạn” và điều quân sang Bắc Mỹ. Các thuộc địa Bắc Mỹ đứng trước ngưỡng cửa của cuộc chiến tranh cách mạng, chống thực dân Anh giành độc lập. Tháng 4-1775 chiến tranh bùng nổ.

Hội nghị lục địa lần thứ II (1775) ngày 10-5-1775: nhằm mục đích giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh, xác định quyền độc lập, tự do của Bắc Mĩ. Hội nghị quyết định thành lập “Quân đội lục địa”, bổ nhiệm Washington - sĩ quan người Virginia làm chỉ huy. Hội nghị kêu gọi nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp xây dựng quân đội. Chính quyền Anh quyết tâm đàn áp thuộc địa, tăng cường quân đội. Chúng tuyên bố dùng chính sách vũ lực phong toả lục địa, thông qua ngân sách chiến tranh.

Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc Mĩ (1776): Sau một thời gian tranh cãi, bản Tuyên ngôn độc lập được thông qua ngày 4/7/1776. Một quốc gia mới - Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã ra đời với nền độc lập của mình. Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên bố đầu tiên về quyền của con người.  Nội dung tiến bộ đó phản ánh thời đại của nó ra đời là thời đại của cao trào cách mạng. Nó tấn công vào chế độ phong kiến và chế độ quân chủ, đòi hỏi thiết lập một chế độ dân chủ tư sản. Tuyên ngôn còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhưng trong điều kiện lịch sử lúc đó, Tuyên ngôn là một văn kiện mang tính chất tiến bộ rõ rệt và có tiếng vang rất lớn, được hoan nghênh ở khắp châu Âu là nơi đang âm ỉ ngọn lửa đấu tranh chống chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến. Ngày 7/10/1776, Hội nghị thông qua bản “Các điều khoản của Liên bang” nêu lên một quy chế đầu tiên của Liên bang.

Chiến thắng Saratoga ngày 17 - 10 – 1777, tạo ra bước ngoặt cuộc chiến, làm cho ưu thế của Mỹ trên trường quốc tế được đề cao. Pháp và Tây Ban Nha công khai ủng hộ Mỹ làm cho Anh rất hoảng sợ phải cầu cứu Nga, nhưng Nga từ chối. Nước Anh bị cô lập  trên mặt biển. Điều đó có ảnh hưởng đến quá trình chiến tranh.


Chiến thắng Yorktown đã giáng đòn quyết định, giành thắng lợi cuối cùng buộc Anh phải ngồi vào bàn đàm phán. Cuộc đàm phán kéo dài trong khoảng 1782 - 1783 tại Versailles đã tạo nên về mặt pháp lý một cơ sở chính trị cho việc chấm dứt chiến tranh. Hiệp ước Versailles đánh dấu tháng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của nhân dân Bắc Mĩ. Nó tuyên bố sự thắng lợi của một cuộc cách mạng mở đường cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Một quốc gia mới ở Bắc Mĩ ra đời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (United States of America) mà ta thường gọi là nước Mĩ hoặc Hoa Kì. Ngày 14/1/1784, quốc hội Liên bang đã phê chuẩn hiệp ước trên.

Cuộc chiến tranh kết thúc, mâu thuẫn giai cấp vốn có ở trong nước bùng lên dữ dội, đời sống của nhân dân lao động không những không hề được cải thiện. Tình trạng đó làm cho mâu thuẫn giai cấp gay gắt và dẫn tới nhiều cuộc khởi nghĩa.

1.2.3.3. Kết quả, tính chất, ý nghĩa lịch sử

* Kết quả:

Theo Hiệp ước Versailles đã kí ngày 3-9-1783, nước Anh phải thừa nhận chủ quyền và nền độc lập quốc gia của Hợp chúng quốc Mỹ có biên giới kéo dài đến sông Mississippi và từ biên giới Canada đến Florida.

Năm 1787, thông qua Hiến pháp, nước Mỹ là một Cộng hoà liên bang được tổ chức theo “tam quyền phân lập”, George Washington làm tổng thống đầu tiên. Hiến pháp Mỹ năm 1787 ra đời sau khi cuộc chiến tranh giành độc lập kết thúc mang tính chất tư sản rõ rệt.

* Tính chất, ý nghĩa lịch sử

Cuộc chiến tranh giành độc lập đã đập tan chế độ thực dân Anh, không chỉ là cuộc giải phóng dân tộc mà còn là cuộc cách mạng tư sản nhằm phá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của sức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, nó còn tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hình thành dân tộc Mỹ. Sự ra đời của nhà nước Hợp chúng quốc Mỹ đánh dấu thắng lợi vẻ vang đó.

Cách mạng tư sản Mỹ là cuộc cách mạng tư sản góp phần thúc đẩy cách mạng chống phong kiến ở châu Âu, phong trào đấu tranh giành độc lập ở Mĩ La-tinh cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX

* Hạn chế:

Lực lượng quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân. Các tầng lớp nhân dân lao động đã đóng góp phần quyết định. Những người nô lệ da đen có vai trò rất quan trọng. Họ tham gia nhiệt tình vào các cuộc cách mạng. Nhưng quyền lãnh đạo cách mạng ở trong tay giai cấp đại tư sản và chủ nô, chủ đồn điền. Cho nên những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân chủ không được giải quyết triệt để. Chế độ nô lệ vẫn được duy trì chế độ bóc lột nô lệ, chính sách phân biệt chủng tộc đã chà đạp lên nhân phẩm và cuộc đời của họ.