Nước Mỹ thời kì nội chiến
Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được thắng lợi. Nước Hợp Chúng quốc Mỹ (Hoa Kỳ) đã ra đời nhưng Hiến pháp 1787 vẫn công nhận sự tồn tại của chế độ nô lệ. Chủ nô đã đưa đại diện của mình lên làm Tổng thống trong nhiều nhiệm kì và nhờ đó đã bảo vệ được chế độ nô lệ đồn điền ở miền Nam. Đến những năm 50 của thế kỉ XIX, kinh tế Mỹ chủ yếu phát triển theo hai con đường: công thương nghiệp của miền Bắc và kinh tế đồn điền sử dụng chủ yếu là nô lệ ở miền Nam. Điều này tạo ra sự phát triển không đều giữa hai miền Nam – Bắc của Mỹ
Nguồn
gốc nội chiến
Thứ nhất, sự phát triển không đều giữa hai miền Nam – Bắc của Mỹ trong nửa đầu thế kỉ XIX. Miền Bắc có những điều kiện thuận lợi để phát triển (một vùng đất rộng lớn, tài nguyên phong phú, tàn dư phong kiến không nặng nề như châu Âu, có nguồn lao động bổ sung dồi dào do dân di cư từ châu Âu đến có kĩ thuật và cần cù lao động, thừa hưởng thành tựu cách mạng kĩ thuật của châu Âu đặc biệt là cách mạng công nghiệp Anh) đã giành được nhiều thành tựu trong sự phát triển sản xuất, như: trong công nghiệp nhẹ, công nghiệp đường sắt, ngành khai mỏ, luyện kim, giao thông vận tải… đến năm 1850, giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt quá giá trị sản lượng nông nghiệp. Mặt khác, nền nông nghiệp trại chủ nhỏ chiếm ưu thế sản xuất phục vụ thị trường công nghiệp. Nhưng con đường phát triển nông nghiệp kiểu tư bản Mỹ không thể dung nạp chế độ nô lệ đồn điền miền Nam và bản thân những người nô lệ sẽ đấu tranh đòi giải phóng.
Ngược lại, ở miền Nam, nền nông nghiệp nằm
trong tay các chủ đồn điền lớn dựa trên sự bóc lột nô lệ da đen.
Những năm 50 của thế kỉ XIX, kinh tế đồn điền ở miền Nam lâm vào
tình trạng khủng hoảng do: chủ nô không cải tiến công cụ, không cải
tạo đất đai và vắt máu nô lệ. Thêm vào đó, chế độ nô lệ ngăn trở
những người di dân da trắng tự do vào miền Nam. Điều đó cho thấy, sự
tồn tại của chế độ nô lệ ảnh hưởng đến cơ sở phát triển công
nghiệp.
Thứ
hai, mâu thuẫn về chính sách thuế quan giữa hai miền. Chính sách thuế là vấn đề cơ bản trong sự
khác biệt và đối lập giữa hai miền Nam – Bắc. Trong khi chủ công nghiệp miền
Bắc muốn bảo đảm thị trường quan thuế nội địa để bảo vệ và khuyến
khích nền công nghiệp trong nước thì ngược lại, chủ nô miền Nam đóng
chặt thị trường không cho hàng hoá miền Bắc vào, nhưng lại mở cửa
nhập hàng hoá của Anh. Chính điều đó tạo ra mâu thuẫn không tránh
khỏi giữa hai miền.
Thứ
ba, mâu thuẫn về mục tiêu trong chính sách mở rộng về miền Tây. Miền Tây của Mỹ là khu vực rộng lớn. Trước
sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp, chủ nô miền Bắc muốn đi về phía
Tây để trồng ngô, lúa mì và nuôi gia súc…nhằm phục vụ cho sản xuất công
nghiệp và biến vùng này thành vùng hậu cần cho công nghiệp. Thế nhưng,
chủ nô miền Nam muốn đi về hướng Tây, tìm vùng đất mới thay thế vùng
đất bạc màu ở miền Nam, tiếp tục phát triển chế độ đồn điền nô lệ
ở đó. Sự khác biệt, đối lập về mục tiêu làm cho mâu thuẫn giữa chủ nô miền Bắc
và miền Nam ngày càng sâu sắc hơn.
Như vậy, đến những năm 50 – 60 của thế
kỉ XIX, vấn đề khai thác miền Tây và khuynh hướng phát triển kinh tế
tư bản chủ nghĩa đã không cho phép chế độ nô lệ ở miền Nam tồn tại. Do
nhu cầu phát triển kinh tế, chế độ nô lệ lạc hậu ở miền Nam cần được xóa bỏ. Nô
lệ phải được tự do để giải phóng sức lao động, cung cấp nhân lực cho nền sản xuất
công nghiệp. Vì vậy, nhiệm vụ xóa bỏ chế độ nô lệ ở miền Nam đang trở thành vấn
đề cấp bách của Mỹ.
Nội
chiến bùng nổ
Ngay từ năm 1858, xung đột giữa miền Bắc và
miền Nam nước Mỹ về vấn đề chế độ nô lệ đã khiến cho các nhà lãnh đạo miền Nam
thảo luận về việc tách khỏi Hợp Chúng Quốc. Đến năm 1860, đa số các bang theo
chế độ nô lệ đã công khai đe doạ sẽ ly khai nếu Đảng Cộng hòa - đảng chống chế
độ nô lệ, chiến thắng trong bầu cử Tổng thống. Nhưng cuối cùng, trước một Đảng
Dân chủ chia rẽ, Abraham Lincoln – Đảng Cộng hòa đã giành thắng lợi trong cuộc
bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11-1860. Bang Nam Carolina ngay lập tức bắt đầu tiến
trình ly khai khỏi Nhà nước liên bang. Ngày 20-12-1860, cơ quan lập pháp của
Nam Carolina thông qua “Pháp lệnh ly khai” (Ordinance
of Secession) và tuyên bố rằng “Liên bang hiện đang bao gồm Nam Carolina và
các bang khác, tồn tại dưới tên Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ, đã bị giải tán” và chuẩn
bị chiếm đóng các pháo đài, kho vũ khí, và các địa điểm chiến lược khác trong
tiểu bang”[1]. Đây là phản ứng đầu tiên của
các bang miền Nam khi A.Lincoln đắc cử tổng thống.
Hành động của Nam Carolina đã được một số bang khác ở miền Nam ủng hộ. Ngày 4-2-1861, tại Montgomery (Alabama), đại biểu 6 bang: Nam Carolina, Mississippi, Florida, Alabama, Georgia, và Louisiana đã tập hợp để thành lập một nhà nước mới: Hợp bang miền Nam Hoa Kỳ (Confederate States of America). Ngày 9-2-1861, Jefferson Davis của Mississippi được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hợp bang. Đến tháng 3-1861, Texas đã gia nhập Hợp bang. Như vậy, gần như toàn bộ miền Nam đều nằm trong nhà nước Hợp bang. Quân đội của Liên bang chỉ còn giữ được các pháo đài Sumter ở Nam Carolina, Pickens ngoài bờ biển Florida, và một số tiền đồn nhỏ ở miền Nam. Ngày 12-4-1861, pháo binh Hợp bang dưới quyền Tướng P.G.T. Beauregard nổ súng vào Pháo đài Sumter, cuộc nội chiến chính thức bùng nổ. Trong vòng hai tháng, Virginia, Arkansas, Bắc Carolina, và Tennessee đã tham chiến cùng phe với Hợp bang. Như vậy, Hợp bang đã mở rộng lên thành 11 bang với dân số khoảng 9 triệu dân, bao gồm cả nô lệ.
Trong khi đó, lực lượng liên bang gồm 23 bang
với dân số khoảng 22 triệu người. Sự vượt trội về công nghiệp đã cung cấp cho
miền Bắc các thiết bị chế tạo vũ khí và đạn dược, quần áo và các đồ cung cấp
khác. Mạng lưới đường sắt ở miền Bắc cũng có ưu thế vượt trội so với miền Nam.
Thế nhưng, trong giai đoạn đầu cuộc chiến, quân đội Liên bang cũng gặp rất nhiều
khó khăn, thử thách.
Tại Virginia quân đội Liên bang tiếp tục gặp
hết thất bại này đến thất bại khác. Trong khi tiếp tục những nỗ lực đẫm máu nhằm
chiếm được Richmond, thủ đô của phe ly khai, các lực lượng Liên bang liên tục bị
đẩy lùi. Phe ly khai có lợi thế phòng thủ lớn là vô số những dòng sông, suối cắt
ngang con đường nối Washington và Richmond. Hai viên tướng giỏi nhất, Robert
E.Lee và Thomas J.Jackson tỏ ra vượt trội hơn về khả năng so với các vị tư lệnh
chỉ huy quân đội liên bang thời kỳ đầu. Trận đánh lớn đầu tiên trong Nội chiến
diễn ra tại Bull Run (bang Virginia) vào tháng 7-1861. Quân Liên bang đã thất bại
và bị đầy lùi. Tổng thống Lincoln ngay lập tức bổ nhiệm George McClellan chỉ
huy quân Liên bang. Năm 1862, McClellan đưa quân đội Liên bang tấn công vào
Richmond – Thủ phủ của Hiệp bang nhưng không thành công. Quân Liên bang trong
thời kì đầu liên tiếp gặp nhiều khó khăn, thất bại. Sau thất bại trong cuộc chiến
đẫm máu ở Antietam, McClellan bị cắt chức, George Meode được cử thay thế để chỉ
huy quân Liên bang.
Tuy nhiên, về mặt hải quân thì Liên bang vượt
trội hơn so với Hiệp bang. Do đó, Tổng thống Lincoln đã cho hải quân bao vây các
bờ biển miền Nam nhằm ngăn chặn được những chuyến tàu chở bông đi châu Âu và cắt
đứt việc nhập khẩu vũ khí đạn dược, quần áo và đồ y tế mà miền Nam đang cần đến.
Đến năm 1863, Liên bang gần như cắt đức được liên lạc của Hợp bang với các nước
châu Âu. Mặt khác, một sự kiện quan trọng góp phần tạo ra bước chuyển của cuộc
chiến tranh là việc Tổng thống Lincoln công bố “Tuyên bố Giải phóng Nô lệ”, ký
ngày 1-1-1863. Theo đó, Lincoln cam kết trả tự do cho mọi nô lệ ở Hợp bang.
Tuyên bố này “đã biến cuộc nội chiến thành cuộc thập tự chinh chống chế độ nô lệ”[2]. Người da đen gia nhập vào quân Liên bang rất
nhiều. Quân đội Liên bang đã tuyển mộ và huấn luyện các trung đoàn lính da đen
và đội quân này đã chiến đấu xuất sắc trong các trận chiến đấu từ Virginia tới
Mississippi. Khoảng 178.000 người Mỹ gốc Phi đã phục vụ trong các Binh chủng hỗn
hợp của Mỹ, và 29.500 người da đen phục vụ trong lực lượng Hải quân Liên bang.
Tuyên ngôn này cũng làm cho Anh – quốc gia đã bãi bỏ chế độ nô lệ, không đứng về
phe Hiệp bang, nơi cung cấp phần lớn bông vải cho ngành dệt của Anh. Rõ ràng,
những sự kiện này đã mang lại nhiều thơi thế cho phe Liên bang.
Từ năm 1863, quân đội Liên bang từng bước phản
công và giành những thắng lợi quyết định. Tháng 7-1863, Tướng Lee (Hiệp bang)
quyết định cho quân tấn công Pennsylvania nhằm giành thắng lợi quyết định.
Trong trận chiến Gettysburg (từ ngày 1 đến ngày 4-7-1863), quân đội của Tướng
Lee đã bị quân Liên bang do Tướng Meade chỉ huy đánh tan tát. Tướng Lee đưa
quân về Virginia và cố thủ tại đây cho đến tàn cuộc chiến. Thất bại này là một
thảm họa đối với quân Hiệp bang vì “1/3 số quân Hiệp bang thương vong trong
tình hình không còn quân dự bị. Hi vọng giành lại thế chủ động và xoay chuyển cục
diện của tướng Lee hoàn toàn tiêu tan”[3].
Trong khi đó, ngày 4-7-1863, Tướng Ulysses
S.Grant – người được Tổng thống Lincoln bổ nhiệm làm Tổng Tư lệnh toàn bộ các lực
lượng quân đội Liên bang, chỉ huy quân Liên bang tấn công và chiếm được
Vicksburg và kiểm soát toàn bộ vùng Mississippi. Năm 1864, ông đưa quân đến
Richmond và chiếm được thủ phủ phe Hiệp bang (tháng 3-1865), cùng lúc đó, Tướng
William Tecumseh Sherman đánh chiếm bang Georgia. Sherman dùng chiến thuật giỏi
hơn nên đánh bại một số đội quân nhỏ hơn của phe ly khai và chiếm được thủ phủ
Atlanta. Sau đó, ông hành quân tới bờ Đại Tây Dương, trên đường đi ông cho phá
hủy một cách hệ thống các đường sắt, nhà máy, kho hàng và những phương tiện
khác. Đến tháng 2-1865, ông đã chiếm Charleston ở Nam Carolina. Bây giờ, Hiệp
bang không còn đủ tài lực, nhân lực để chiến đấu với quân Liên bang nữa. Ngày
9-4-1865, Tướng Lee đã đầu hàng Tướng Grant tại Appomattox Courthouse, đánh dấu
cuộc nội chiến kết thúc. Tuy nhiên, những lễ hội ăn mừng chiến thắng của quân
Liên bang đã phải đột ngột chấm dứt khi Tổng thống A.Lincoln bị ám sát ngày
14-4-1865.
Cuộc nội chiến kết thúc với thắng lợi cho
quân đội Liên bang. Sau khi Lincoln bị ám sát, Phó tổng thống Andrew Johnson
lên kế vị và thực hiện cuộc cải tổ ở miền Nam, mở rộng quyền dân sự cho người
da đen và ngăn phe Hiệp bang trước đây giành lại quyền lực. Tháng 12-1865, Nghị
viện đã bỏ phiếu phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi thứ 13 của Hiến pháp (Tu Chính
Án 13) về việc bãi bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ ở miền Nam. Như vậy, những cản trở
sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Mỹ đã từng bước bị xóa bỏ. Đến năm
1870, Hiến pháp Mỹ thừa nhận quyền bầu cử của tất cả nam giới không
kể màu da. Như vậy, chế độ nô lệ được xoá bỏ. Việc bãi bỏ chế độ nô lệ
đã tạo điều kiện cho Mỹ phát triển nhanh chóng trong 30 năm sau đó. Vì vậy, có
thể xem cuộc nội chiến là cuộc Cách mạng tư sản lần thứ hai ở Mỹ vì nó tạo ra
quá trình chuyển biến mạnh mẽ trong nông nghiệp theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Con đường phát triển tư bản kiểu Mỹ trong nông nghiệp được mở
rộng, cơ sở cho sự phát triển công nghiệp được tạo nên một cách đầy
hứa hẹn. Nhờ vậy, cuối thế kỉ XIX, Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc cách
mạng công nghiệp, nhanh chóng đưa nước Mỹ lên vị trí hàng đầu của
các nước tư bản trên thế giới.
[1] States meet to form Confederacy, source:
http://www.history.com/this-day-in-history/states-meet-to-form-confederacy.
[2] Patricia S. Daniels Stephen G. Hyslop (2007), Lược sử thế giới, NXB Từ điển Bách khoa,
tr.377.
[3] Patricia S. Daniels Stephen G. Hyslop (2007), Lược sử thế giới, NXB Từ điển Bách khoa,
tr.378.