21/4/20

Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay



Đinh Công Tuấn (17-7-2015), Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/dieu-chinh-chinh-sach-doi-ngoai-cua-trung-quoc-hien-nay.
ĐINH CÔNG TUẤN
Thứ sáu, 17 Tháng 7 2015 21:20


1. Đặt vấn đề


Hơn 90 năm qua kể từ khi thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921), hơn 70 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949), mục tiêu chiến lược của Trung Quốc không hề thay đổi, đó là xây dựng Trung Quốc trở thành cường quốc số 1 lãnh đạo thế giới. Từ sau Đại hội 18 ĐCSTQ (2012), TQ đặc biệt nhấn mạnh xây dựng “CHXH đặc sắc Trung Quốc”, với nền tảng lý luận là kiên trì phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng “ba đại diện” của Giang Trạch Dân, quan điểm phát triển khoa học, hài hòa XHCN của Hồ Cẩm Đào. Và hiện nay Trung Quốc đã bổ sung lý luận về việc “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”, thực hiện “giấc mộng Trung Hoa” với hai mục tiêu có tính tiêu chí của Tập Cận Bình (2 mục tiêu 100 năm, một là kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCSTQ (1921 – 2021) nhằm xây dựng xã hội khá giả toàn diện, và hai là kỷ niệm 100 năm thành lập nước CHNDTH (1949 – 2049) xây dựng thành công nhà nước TQ hiện đại hóa XHCN, văn minh, dân chủ, giàu mạnh, hài hòa[1].


Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích những điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay, đặc biệt trong thời kỳ Tập Cận Bình lãnh đạo đất nước và những tác động của nó đến khu vực và thế giới.


2. Vì sao TQ phải điều chỉnh chính sáchđốingoại?


2.1. Do tình hình thế giới đã có những biến đổi sâu sắc


- Hiện nay, Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện vai trò lãnh đạo thế giới và đẩy mạnh sự can dự trên phạm vi toàn cầu. Mỹ đã và đang thực thi chiến lược “xoay trục” từ Đại Tây Dương sang châu Á – Thái Bình Dương. Trung Quốc nhận thức rằng, điều đó đã đe dọa, thách thức đến địa vị lãnh đạo khu vực mà TQ đã ấp ủ thực thi bao lâu nay.


- Châu Âu hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, thách thức to lớn cả về chính trị và kinh tế. Về chính trị, châu Âu đang sa lầy vào cuộc khủng hoảng Ucraina. Với việc bao vây cấm vận nước Nga, EU đang gặp nhiều khó khăn trong việc vấp phải sự phản kháng mãnh liệt từ phía Nga. Hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu giải quyết bình thường, ổn định vấn đề này.


Về kinh tế, một mặt châu Âu đang phải tập trung khắc phục những tác động xấu của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp, mặt khác những phản đòn kinh tế của Nga nhằm vào EU cũng đang gây nên nhũng hệ lụy xấu trong thương mại, đầu tư, sản xuất ở các nước thành viên.


Những diễn biến xấu ở châu Âu đang tạo cơ hội mới cho Trung Quốc trong việc phát huy, mở rộng ảnh hưởng cả về chính trị, kinh tế của mình ở châu Âu hiện nay.


- Đối với các nước đang phát triển ở khu vực Á, Phi, Mỹ la tinh: TQ trong những năm qua đã tận dụng mọi thời cơ, tạo ra các cơ hội mới để mở rộng quan hệ hợp tác cả về chính trị, kinh tế với các nước này, trên cả 3 cấp độ: toàn cầu, khu vực, song phương. TQ đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến mới, khai thác những yếu kém của các nước, tập trung mở rộng đầu tư, thương mại, viện trợ cho các nước, với mục tiêu hết sức thực dụng, nhằm thu về những lợi ích tối đa (nhiều phân tích quốc tế cho rằng Trung Quốc đang ráo riết thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở các nước đang phát triển trong phạm vi toàn cầu). Tình hình thế giới hiện nay đã tạo thuận lợi lớn cho việc điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại của Trung Quốc.


2.2. Do tình hình trong nước có những biến chuyển và thay đổi lớn lao


Thứ nhất:thực lực, vị thế hiện nay của TQ đã thay đổi mạnh mẽ theo hướng có lợi, điều đó buộc TQ phải điều chỉnh, thay đổi chính sách đối ngoại của mình.


Sau hơn 35 năm cải cách, mở cửa với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 10% một năm, hiện nay GDP của TQ đã đạt mức 10.500 tỷ USD, nếu tính theo sức mua tương đương (PPP) thì GDP của TQ còn cao hơn so với Mỹ, đứng đầu thế giới. Khi bắt đầu cải cách mở cửa (1978), GDP của TQ chỉ bằng 1/3 của Nga, đến năm 2014 GDP của TQ đã lớn gấp 6 lần GDP của Nga. Năm 2014, dự trữ vàng và ngoại hối của Trung Quốc đã đạt gần 4000 tỷ USD, lớn nhất thế giới. Kim ngạch thương mại cũng đạt hơn 4000 tỷ USD, đứng đầu thế giới. Như thế, nếu tính từ khi cải cách (1978), GDP của TQ hiện nay (2014) đã tăng gấp 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng 20 lần, kim ngạch thương mại tăng hơn 100 lần, đã biến TQ từ một “công xưởng thế giới” thành một “nhà máy của tri thức”[2].


TQ đã kết thúc thời kỳ bị động “im lặng chờ thời”, “trỗi dậy hòa bình” do Đặng Tiểu Bình đề ratừ thập kỷ 1990, và hiện nay đã chuyển sang giai đoạn mới thực hiện ngoại giao nước lớn, chủ độngđề xuất sáng kiến mới, nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ở khu vực và trên thế giới.


Thứ hai, TQ hiện nay đã điều chỉnh chính sách đối ngoại mới nhằm đẩy mâu thuẫn, xung đột trong nước ra bên ngoài. Do hiện nay, TQ có nhiều mâu thuẫn, xung đột nội tại đất nước như mâu thuẫn trong cách đi, cách thực hiện công cuộc chống tham nhũng “đả hổ, diệt ruồi”, mâu thuẫn về hệ lụy phát triển đất nước, chênh lệch giữa nông thôn – thành thị, vùng ven biển – vùng nội địa, đặc biệt vùng phía Đông và Tây Nam, giữa công nghiệp với nông nghiệp, các vấn đề chống đối ở Tây Tạng, Tân Cương, vấn đề về việc làm – thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, già hóa dân số, phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo, văn hóa – xã hội, người nhập cư và người yếu thế trong xã hội v.v… Những thuận lợi và thách thức khó khăn kể trên đã thúc đẩy TQ phải chuyển đổi chính sách đối ngoại mới nhằm thúc đẩy hoàn thành nhanh chóng sự nghiệp cải cách mở cửa đất nước, thực hiện chấn hưng Trung Hoa, hoàn thành giấc mộng Trung Hoa do Tập Cận Bình khởi xướng.


3. TQ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại mới ra sao?


3.1. Chiến lược đối ngoại của TQ đã thay đổi theo từng giai đoạn của đất nước.


- Sau khi nước CHNDTH ra đời (1949), thập kỷ 50 của thế kỷ XX, TQ thực hiện chính sách đối ngoại “nhất biên đảo” (ngả một bên) (ngả về Liên Xô).


- Đến thập niên 60 (thế kỷ XX) TQ điều chỉnh thành “Lưỡng biên phản” (chống cả hai bên: Liên Xô, Mỹ).


- Bước vào thập niên 70 (thế kỷ XX), TQ chuyển sang chính sách “Nhất điều tuyến” ( một tuyến).


- Thập kỷ 80, TQ thực hiện chính sách “Độc lập cán” (thực hiện chính sách độc lập tự chủ).


- Sau chiến tranh lạnh thập kỷ 90,TQ thực hiện chính sách đối ngoại mới “tăng cường kết bạn”. Cho đến nay, đường lối đối ngoại “tăng cường kết bạn” ngoại giao bạn bè vẫn được TQ duy trì tiếp tục.


3.2. Những điều chỉnh mới trong chiến lược “Ngoại giao bạn bè”


- Đặc trưng chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ là:


1) Thực dụng, cùng có lợi


2) Trên cơ sở tự nguyện đôi bên


3) Công khai, không chống nước thứ 3


4) Được thiết lập bằng con đường ngoại giao chính thống


5) Cơ chế vận hành là đối thoại nhiều tầng nấc, xây dựng mô hình hợp tác song phương (nước với nước, bộ ngành địa phương với nhau, các lĩnh vực khác nhau, hình thức: gặp gỡ cấp cao thường kỳ, đường dây nóng, trao đổi…).


6) Khung quan hệ được xác định gồm 4 tầng nấc:


+ Tầng thứ nhất: “Mô hình ổn định” chỉ quan hệ hai nước đạt đến trình độ mật thiết, ổn định. Ví dụ: quan hệ TQ với LB Nga.


+ Tầng thứ hai: “Mô hình thông thường” chỉ quan hệ mới bắt đầu khởi sắc, chưa có biểu hiện gì đặc sắc. Ví dụ: quan hệ TQ – Canada.


+ Tầng thứ 3: “Mô hình có triển vọng”, chỉ mối quan hệ đã được xác lập, nhưng phát triển chưa toàn diện, có nhiều vấn đề cọ xát gay cấn. Ví dụ: quan hệ TQ – Hoa Kỳ.


+ Tầng thứ 4: “Mô hình tiềm năng”, chỉ mối quan hệ tương lai có thể xây dựng và phát triển quan hệ tốt trên nhiều lĩnh vực”[3].


7) Cơ cấu chủ thể trong chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ bao gồm 3 bộ phận chủ yếu:


Thứ nhất: “Điểm”, là nói đến quan hệ của TQ với các nước lớn trên thế giới, bao gồm 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc: Hoa Kỳ, Nga, Anh, Pháp, những nước này có ảnh hưởng lớn đến các công việc quốc tế. TQ đặc biệt chú ý phát triển quan hệ toàn diện với các nước lớn, nước trở thành “điểm” cực kỳ quan trọng trong chiến lược “ngoại giao bạn bè” của TQ.


Thứ hai: “Tuyến”, thực chất chỉ “cương tuyến” (đường biên giới quốc gia). TQ chú trọng quan hệ với các nước láng giềng, coi đây là “tuyến” sống còn, an nguy quốc gia.


Thứ ba: “Diện” chỉ TQ xây dựng với tất cả các quốc gia trên thế giới với tinh thần hữu nghị, hợp tác, cùng có lợi[4].


3.3. Những điều chỉnh mới trong chính sách ngoại giao hiện nay, thời Tập Cận Bình lãnh đạo đất nước


- Sau khi lên nắm quyền, Tập Cận Bình đã tiến hành điều chỉnh rất nhiều về chính sách đối nội và đối ngoại, đáng chú ý nhất là chiến lược, chính sách ngoại giao. Trong kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 12 ngày 5/3/2015, TQ đã đưa ra tiêu đề điều chỉnh ngoại giao mới: “Đẩy mạnh điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng, thúc đẩy triển khai chiến lược “một vành đai, một con đường”, nội dung đã nêu rõ: “Đi sâu đối thoại chiến lược và hợp tác thực chất với các nước lớn, xây dựng khung quan hệ nước lớn lành mạnh, ổn định. Thúc đẩy toàn diện ngoại giao chu biên (láng giềng mở rộng), xây dựng “cộng đồng vận mệnh chu biên”. Theo đó, TQ sắp xếp thứ tự ưu tiên:


1) “Ngoại giao nước lớn” được đặt ở vị trí đầu tiên


2) “Ngoại giao láng giềng” được đặt ở vị trí thứ hai.


- Trung Quốc đang tính toán xây dựng “chiến lược ngoại giao đại chu biên” cho 10 năm tới, với các nội dung sau: (1) Xác lập điểm ngoại giao “đại chu biên”, (2) Xây dựng nước lớn kiểu mới với Mỹ và 3 nước lớn xung quanh là Nhật, Nga, Ấn Độ, (3) Thống nhất đồng bộ, liên thông ngoại giao láng giềng của 6 địa bàn Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á, Tây Á và Nam Thái Bình Dương, (4) Kết hợp điều phối 4 mặt tư duy ngoại giao láng giềng giữa “đột phá trên biển” với “tích cực Tây tiến”, “đứng vững trong nước” và “triển khai ra ngoài”[5]. Với 4 phương châm: “chân thành, thân thiện, cùng có lợi và “dung” (hài hòa, chi phối, thôn tính).


- Cụ thể, các hướng điều chỉnh ngoại giao mới của TQ là:


+ Ở phía Đông Bắc: cạnh tranh mãnh liệt với Nhật Bản với chính sách “nhận diện phòng không”, tranh chấp chủ quyền biển đảo.


+ Ở phía Đông Nam, đưa cơ sở lý luận đường biên giới lịch sử về “đường lưỡi bò, 9 đoạn”, đưa giàn khoan HD 981 vào vùng biển Việt Nam, xây dựng 7 đảo nhân tạo trên vùng biển của Việt Nam, thách thức an ninh chủ quyền và an ninh hàng hải của các nước láng giềng như Việt Nam, Philippin, Malayxia, Brunei.


+ Ở phía Bắc, tạm thời hòa hoãn với Nga, nhưng vẫn thực hiện âm mưu thôn tính vùng đất Viễn Đông rộng lớn của Nga khi có điều kiện, thực hiện âm mưu mở rộng bành trướng biên giới với Mông Cổ.


+ Ở phía Nam, ấp ủ âm mưu chia rẽ, mua chuộc, thôn tínhcácvùng đất của Myanma, Lào, Campuchia.


+ Ở phía Tây, lôi kéo các nước Pakistan,Nepal, các nước Trung Á(SNG) nhằm chia rẽ với Ấn Độ và Nga.


- Đặc biệt TQ đưa ra sáng kiến mới kết nối Đông – Tây, Á – Âu – Phi bằng chiến lược “Một vành đai, một con đường” (OBAOR), xây dựng Ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), xây dựng khu vực mậu dịch tự do Châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP)


+ Ý tưởng đầu tiên được Tập Cận Bình đề ra chiến lược cùng nhau xây dựng “vành đai kinh tế, con đường tơ lụa” (NSR) được phát biểu tại trường Đại học Natrapaep, Kazastan ngày 7/9/2013.


+ Sau đó đến ngày 3/10/2013, Tập Cận Bình đề xuất trước Quốc Hội Indonexia rằng TQ sẵn sàng cùng các nước ASEAN xây dựng “con đường tơ lụa trên biển thế kỉ 21” (MSR).


+ Tập Cận Bình lại nêu đề nghị nàytại Hội nghị APEC 11/2014,Trung Quốc coi thời điểm ngày ra đời của NSR và MSR được gọi chung là chiến lược “một vành đài, một con đường” (OBAOR).


+ OBAOR chính thức trở thành chính sách quốc gia từ tháng 11/2013 bằng nghị quyết trung ương 3 khóa 18: “Phải xây dựng cơ cấu tài chính tiền tệ mở, đẩy nhanh xây dựng hỗ liên hỗ thông cơ sở hạ tầng với các quốc gia và khu vực xung quanh, thúc đẩy xây dựng “vành đai kinh tế con đường tơ lụa” và “con đường tơ lụa trên biển” hình thành một cục diện mới mở cửa toàn phương vị”.


- Mục tiêu TQ xây dựng chiến lược “một vành đai, một con đường” (OBAOR) là:


(1) Chủ động đề xuất mới với tư duy nước lớn, vai trò nước lớn, khát khao thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, xây dựng TQ là trung tâm địa chính trị - kinh tế toàn cầu, độc chiếm biển Đông, thực hiện đường lưỡi bò.


(2) Chống lại “chiến lược xoay trục” của Mỹ, đối trọng với TPP và TTIP của Mỹ, do Mỹ chi phối, lấylạivị trí lãnh đạo số 1 thế giới từ tay Mỹ.


(3) Tận dụng yếu tố lịch sử, hơn 2100 năm trước, TQ khởi xướng con đường tơ lụa để khuếch trương thanh thế, mở rộng lợi ích của mình (ngày nay TQ cũng có điều kiện để sử dụng yếu tố lịch sử phục vụ cho chiến lược quốc gia) nhằm phá thế cô đơn, gia tăng ảnh hưởng ra khu vực, thế giới.


(4) Nhu cầu thúc đẩy kinh tế, ngăn đà thiểu phát: cầu thị trường, nguồn năng lượng, nguyên liệu, phát triển cân bằng vùng - miền. Cụ thể, TQ sẽ sử dụng những nguyên liệu sản xuất dư thừa trong nước (sắt thép, xi măng, vật liêu xây dựng...) cùng lực lượng lao động dư thừa và đồng nhân dân tệ để chuyển đổi, để xây dựng một vành đai, một con đường, thông qua ngân hàng AIIB.


- Quy mô của “1 vành đai, 1 con đường” (OBAOR):


+ Thế giới sẽ có một khu vực rộng lớn dưới sự khống chế của TQ:


· Một không gian nối liền 3 châu lục Á – Âu – Phi


· Qua 26 quốc gia và vùng lãnh thổ với dân số 4,4 tỷ người, chiếm 63% dân số thế giới, GDP đạt 21.000 tỷ USD, chiếm 29% GDP toàn cầu, xuất khẩu hàng hóa dịch vụ đạt 23,9% toàn cầu.


+ Hai con đường đều xuất phát từ TQ theo đường bộ và đường biển, hội tụ tại Venise (Ý) tạo thành một vòng tròn khép kín lớn, một hành lang kinh tế dài nhất xuất phát từ TQ, thông qua Trung Á, Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á, qua một phần châu Âu, phía Đông đối với vành đai kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, phía Tây đối với vành đai kinh tế châu Âu.


+ NSR và MSR chia làm 3 tuyến: (1) Tuyến Bắc: xuất phát từ Bắc Kinh – Nga – Đức – Bắc Âu, (2) Tuyến giữa (Trung): xuất phát từ Bắc Kinh – Tây An – Urumsi – Apganistan – Kazastan – Hungary – Paris, (3) Tuyến Nam: Tuyền Châu – Phúc Châu – Quảng Châu – Hải Khẩu – Bắc Hải – Hà Nội – Kuala Lumpur – Jakarta – Colombo – Calcuta – Nairobi – Athens – Venise.


- Những khó khăn thực thi “một vành đai, một con đường” của TQ


(1) Nội bộ TQ


+ Tiềm lực TQ còn hạn chế (kinh tế)


+ Nội bộ phân tán, mâu thuẫn xã hội sâu sắc (chính trị)


(2)Bên ngoài


+ Mỹ và phương Tây gây cản trở


+ TQ không có đồng minh chiến lược, các nước láng giềng và trên thế giới đều nghi ngờ giữa nói và làm của Trung Quốc, không đi đôi với nhau, nghi ngờ động cơ bành trướng, thôn tính lãnh thổ của TQ ẩn náu trong sáng kiến mới hiện nay.


+ Không có cơ sở pháp lý vững vàng để thực hiện, thiếu cơ chế đảm bảo. Các nước tham gia vì có lợi ích của đất nước họ, nhưng nếu kết quả không đạt được như mong đợi, nhất định các nước sẽ bỏ cuộc giữa đường[6]


4. Những hệ lụy và tác động của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại mới của Trung Quốc đến bản thân Trung Quốc và các nước trong khu vực.


4.1. Những hệ lụy và tác động đến Trung Quốc.


(1) Chính sách đối ngoại, đặc biệt chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc sẽ cứng rắn hơn, quyết liệt hơn.


(2) Với việc Trung Quốc thực hiện chính sách “khác biệt cự li”, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh thủ đoạn “chia để trị” đối với các nước láng giềng.


(3) Trung Quốc sẽ tăng cường yếu tố an ninh và yếu tố chiến lược trong chính sách láng giềng, đặt việc “kiên quyết bảo vệ chủ quyền an ninh, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia” vào vị trí ưu tiên số 1 (lợi ích cốt lõi) trong chính sách đối ngoại nói chung và chính sách ngoại giao láng giềng nói riêng, chính sách ngoại giao láng giềng sẽ phải phục vụ tốt hơn cho chiến lược đối ngoại chung của quốc gia.


(4) Trung Quốc sử dụng khung “quan hệ nước lớn kiểu mới Trung – Mĩ” để ngăn chặn quan hệ giữa các nước láng giềng với Mĩ, đồng thời tìm cách chia chác lợi ích với Mĩ qua đầu các nước vừa và nhỏ xung quanh.


(5) Điều chỉnh chính sách đối ngoại mới của Trung Quốc sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh tế mới, Trung Quốc càng có nhiều điều kiện để dùng kinh tế để thúc đẩy chính trị phục vụ cho những lợi ích của mình.


4.2. Tác động đến các nước trong khu vực.


Sự điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng mới của Trung Quốc hiện nay cuối cùng đều nhằm mục tiêu thực hiện chính sách “chia để trị”, gây bất hòa trong các nước láng giềng, tạo ra những nguy cơ mới, thách thức đe dọa đến mọi lĩnh vực đời sống của các quốc gia láng giềng, cụ thể:


Thứ nhất, tác động tiêu cực tới nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực.Trong lĩnh vực thương mại, Trung Quốc thực hiện chính sách cạnh tranh thiếu lành mạnh, khiến cho các nước Đông Nam Á bị đẩy vào thế nhập siêu chỉ đóng vai trò là nơi cung cấp nguyên liệu thô, tài nguyên, năng lượng giá trị thấp cho Trung Quốc, trong khi đó lại nhập về thiết bị, máy móc, đồ gia dụng. Hàng hóa Trung Quốc với giá rẻ, chất lượng thấp, thậm chí còn gây độc hại sức khỏe đã tràn ngập thị trường, tác động rất tiêu cực đến sản xuất nội địa, ảnh hưởng tới chất lượng đời sống của nhân dân và làm gia tăng nạn thất nghiệp ở nhiều nước; gây lo lắng bất bình trong nhân dân, làm mất ổn định chính trị.


Trong hợp tác đầu tư, Trung Quốc chủ yếu quan tâm đến bất động sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các nước Đông Nam Á; đồng thời lợi dụng các dự án để đưa hàng loạt lao động phổ thông, trình độ thấp tới làm việc tại các nước này. Đây là phương thức giải quyết nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu ngày càng gia tăng do quá trình phát triển kinh tế nóng và tạo công ăn việc làm cho số lượng dân chúng thất nghiệp ngày càng nhiều ở Trung Quốc. Điều này khiến cho chính quyền và nhân dân các nước Đông Nam Á đặc biệt lo lắng, bởi hệ lụy không chỉ là mất đất, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, lợi ích của nước sở tại bị tổn hại, dân chúng bản địa mất việc làm và cơ hội, mà còn gây ra nhiều yếu tố đe dọa an ninh quốc gia. Mặt khác, việc Trung Quốc không ngừng đổ tiền đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, bất động sản và khai thác nguyên, nhiên liệu tại các nước ASEAN, làm tăng mức độ phụ thuộc của các nước ASEAN vào nền kinh tế Trung Quốc. Điều đó gây ra nguy cơ: bất cứ một cuộc khủng hoảng kinh tế nào của Trung Quốc cũng sẽ gây ra những tác động rất xấu, thậm chí là khủng hoảng mang tính dây chuyền đối với nền kinh tế ASEAN. Ngoài ra, Trung Quốc có thể lợi dụng những quan hệ hợp tác kinh tế để gây sức ép với các nước ASEAN về chính trị, đối ngoại… nhằm thỏa mãn mục đích và mưu đồ bành trướng của họ.


Thứ hai, tác động tiêu cực tới văn hóa xã hội các nước Đông Nam Á. Với thế mạnh của lịch sử văn hóa lâu đời 5000 năm, Trung Quốc sử dụng “sức mạnh mềm” văn hóa để tiếp cận các nguồn lực và từng bước mở rộng ảnh hưởng của mình bằng cách mở các học viện Khổng Tử, hợp tác giáo dục, cấp học bổng cho học sinh các nước đến Trung Quốc học tập, trong đó dành nhiều ưu tiên cho khu vực Đông Nam Á. Những nguồn nhân lực được đào tạo cả về chuyên môn và tư tưởng Trung Quốc sẽ là lực lượng chính để thao túng và giúp sức cho quá trình thực hiện “sức mạnh mềm” của Trung Quốc tại các nước sở tại; thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa giữa các nước; xuất khẩu các sản phẩm văn hóa như truyền hình, phim ảnh, âm nhạc… ra toàn thế giới, tạo điều kiện để quảng bá ngôn ngữ và làm cho làn sóng văn hóa Trung Quốc tràn vào Đông Nam Á. Hiện nay, làn sóng phim truyền hình Trung Quốc với chủ đề lịch sử hấp dẫn hay những vấn đề nổi cộm của xã hội đương đại đang chiếm thời lượng lớn trên hầu hết các kênh truyền hình của các nước Đông Nam Á, thậm chí khiến cho một số người dân các nước bản địa “thuộc” lịch sử Trung Quốc hơn lịch sử nước mình. Điều này gây tác động xấu đến truyền thống văn hóa của các dân tộc, tới tâm trạng xã hội của các nước Đông Nam Á.


Bên cạnh đó, cộng đồng người Hoa tại khu vực Đông Nam Á rất đông đảo, có năng lực về tiền vốn và kinh doanh, có mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế, văn hóa với Trung Quốc, đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác, liên kết giữa Trung Quốc với các nước ASEAN. Tuy nhiên, cộng đồng người Hoa luôn là vấn đề trong quan hệ đối nội và đối ngoại của các nước Đông Nam Á; đôi khi tác động tiêu cực tới nền kinh tế các nước và gây mâu thuẫn với người dân sở tại (như việc người Hoa lợi dụng khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực để đầu cơ, nâng giá lương thực khiến cho nhiều người dân bản địa nổi giận).


Thứ ba, tác động tiêu cực, gây chia rẽ nội bộ các nước ASEAN, đặc biệt trong vấn đề Biển Đông. Viện trợ và sức ảnh hưởng ngày càng to lớn của Trung Quốc đối với Đông Nam Á làm tăng tính phụ thuộc của các nước trong khu vực vào Trung Quốc; đây chính là cơ hội và chiêu bài mà Trung Quốc có thể sử dụng để khống chế, ép buộc các nước phải phục vụ mục đích chính trị và lợi ích kinh tế của mình. Trung Quốc ra sức sử dụng con bài kinh tế: hào phóng viện trợ, cho vay, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, mời chào những lợi ích kinh tế… khiến một số nước trong khu vực (điển hình là Campuchia) luôn hoan nghênh, chào đón, ủng hộ Trung Quốc. Trong khi đó, các nước như Philippines, Indonesia, Việt Nam… đều cho rằng, mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược của Trung Quốc xưa nay vẫn là khẳng định vị trí bá quyền và tạo phạm vi ảnh hưởng của nước lớn bá chủ bao trùm khu vực. Điều này tạo ra sự bất đồng quan điểm, gây chia rẽ giữa các nước trong khu vực, phá hoại sự đoàn kết - sức mạnh ảnh hưởng của ASEAN.


Thứ tư, nguy cơ chạy đua vũ trang và nổ ra xung đột vũ trang trong khu vực.Nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế Trung Quốc có điều kiện và thực lực để tăng cường sức mạnh quân sự, đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, đặc biệt chú trọng thực lực hải quân, đồng thời bộc lộ bản chất bá quyền qua những hành động hung hăng trên biển Đông nhằm hiện thực hóa mưu đồ độc chiếm biển Đông. Điều này gây quan ngại sâu sắc cho các nước trong khu vực, nhất là các nước ven biển Đông. Tăng cường sức mạnh quân sự là phản ứng tự nhiên của các nước Đông Nam Á, song song với biện pháp tăng cường hợp tác quân sự khu vực, nhằm đối phó với một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh và hung hăng. Tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông ngày càng được thổi bùng do triển vọng các mỏ dầu khí dồi dào, khiến cho Malaysia, Philippines, Brunie và Việt Nam cố gắng tìm cách cân bằng trước sức mạnh hải quân đang phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc. Ngay cả những nước không dính líu trực tiếp vào cuộc tranh chấp (như Thái Lan, Singapore) thì an ninh biển vẫn là một trọng tâm then chốt. Do vậy, các nước Đông Nam Á liên tục tăng cường mua sắm vũ khí (chủ yếu là các chiến hạm, tàu tuần tra, hệ thống radar, máy bay chiến đấu cùng với các tàu ngầm và tên lửa chống hạm) để bảo vệ các tuyến hàng hải, các cảng và biên giới biển quan trọng đối với dòng chảy xuất khẩu và năng lượng. Như vậy, luôn hiện hữu một nguy cơ sẽ xảy ra xung đột vũ trang khi các bên trong tranh chấp thiếu kiềm chế cần thiết.


Kết luận


Kể từ khi Tập Cận Bình lên làm lãnh đạo đất nước, ông đã tập trung mọi quyền lực để khống chế tình hình, thúc đẩy cải cách. Về đối nội lấy “Bốn toàn diện” làm ngọn cờ (toàn diện xây dựng xã hội tiểu khang, toàn diện đi sâu cải cách, toàn diện “y pháp trị quốc” và toàn diện nghiêm khắc quản lý, quản trị Đảng), lấy “xây dựng pháp trị” làm khâu đột phá, lấy “chống tham nhũng” làm công cụ xiết chặt kỷ cương. Về đối ngoại, TQ hoàn toàn từ bỏ phương châm “giấu mình chờ thời”, chuyển sang “hành động thể hiện”, chủ động đưa ra các sáng kiến trong việc tham gia và hoạch định luật chơi quốc tế. TQ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại, thể hiện vai trò “nước lớn kiểu mới” Trung – Mỹ và “Ngoại giao chu biên, đại chu biên” với đột phá là triển khai chiến lược “một vành đai, một con đường”, với sáng kiến xây dựng ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) và xây dựng khu vực thương mại tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP). Mục tiêu đưa TQ vào vị trí trung tâm địa chính trị - kinh tế toàn cầu, nhằm gạt bỏ Mỹ khỏi vai trò lãnh đạo khu vực và toàn cầu. Từ đó TQ cho phép mình hành xử với các nước láng giềng trên cương vị là đất nước lãnh đạo khu vực và toàn cầu trong quan hệ quốc tế cường quyền mới: “thuận sống, chống chết”, “chia để trị”, phân hóa, chia rẽ, gây mâu thuẫn giữa các nước, độc chiếm biển Đông, hoàn thành giấc mộng Trung Hoa.



[1]Báo cáo chính trị Đại hội 18 ĐCSTQ và những tổng hợp của tác giả


[2] “TQ phiên bản đặc biệt của CNXH”, http://nghiencuubiendong.vn


[3] Tìm hiểu chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ hiện nay: đặc trưng, bản chất, mục tiêu”, http://dltntq.laocai.gov.vn


[4] Tìm hiểu chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ hiện nay: đặc trưng, bản chất, mục tiêu”, http://dltntq.laocai.gov.vn


[5]Tạp chí “Kinh tế và chính trị thế giới”, 12/12/2013


[6]Hồ Sỹ Tuệ, Trung Quốc năm 2015: Những vấn đề nổi bật vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ “thời cơ chiến lược”, Kỷ yếu hội thảo Dự báo một số vấn đề về tình hình thế giới năm 2015 và những tác động đối với Việt Nam, Hà Nội, tháng 3/2015

NHÌN LẠI QUÁ TRÌNH “VĂN MINH HÓA GIÁO DỤC” Ở NHẬT BẢN NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX – BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM


NHÌN LẠI QUÁ TRÌNH “VĂN MINH HÓA GIÁO DỤC” Ở NHẬT BẢN NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX – BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TS. Lê Tùng Lâm[1]
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đầu thế kỉ XIX, sự xâm lược của các nước phương Tây vào châu Á đã tạo ra quá trình “văn minh hóa” ở hầu hết các nước. Ở Nhật Bản, quá trình này đã có tác động mạnh mẽ đến nền giáo dục. Sự tiếp xúc với những tiến bộ khoa học, kĩ thuật của các nước Âu – Mĩ đã thúc đẩy sự chuyển biến trong nền giáo dục Nhật Bản. Đặc biệt, từ sau cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868, Nhật Bản đã đẩy mạnh quá trình giáo dục theo hướng các nước tư bản. Từ đó, Nhật Bản trở thành cường quốc Á châu trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Vậy văn minh hóa là gì? Quá trình này đã tác động đến nền giáo dục Nhật Bản như thế nào? Sự phát triển của Nhật Bản từ đầu thế kỉ XX đến nay để lại bài học kinh nghiệm gì cho Việt Nam trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay? Thiết nghĩ, việc tìm hiểu lại quá khứ để rút ra bài học cho hiện tại là một điều cần thiết.
NỘI DUNG
1.      Quá trình văn minh hóa ở Nhật Bản thế kỉ XIX.
Văn minh là một thuật ngữ xuất phát từ tiếng Latin civilis, là tĩnh từ của danh từ civis, có nghĩa là “người thành phố”, tức một người sống ở thành phố và chịu sự quản lý của pháp luật tại thành phố. Về cơ bản đó là mô hình của cuộc sống ở Rôma và các thành phố lớn khác, trái ngược với cuộc sống ở nơi khác trong nước, cuộc sống thành phố được coi là phát triển hơn, hoàn hảo hơn. Ngày nay, Văn minh (Civilization) là chỉ trạng thái tiến bộ về mặt vật chất lẫn tinh thần của xã hội con người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Thế kỉ XIX, người Nhật tiếp nhận từ civilization mà dịch thành Bunmei để chỉ khái niệm văn minh.
Văn minh hóa có thể hiểu là quá trình tiếp nhận văn minh bên ngoài và cải biến, nhân rộng nó ra trong cả nước với quy mô lớn hơn. Ở đây, chúng tôi nói đến sự tiếp nhận và phổ quát nền văn minh phương Tây vào Nhật Bản thế kỉ XIX. Ở Nhật Bản, Văn minh hóa (hay văn minh khai hóa - Bunmei Kaika) là thuật ngữ xuất hiện vào thời kì Minh Trị duy tân để “chỉ những chính sách cách tân của chính phủ hướng đến văn minh phương Tây, học tập văn minh phương Tây để tiến hành cận đại hóa Nhật Bản…”([2]). Như vậy, văn minh hóa là quá trình tiếp nhận những thành tựu của nền văn minh bên ngoài (ở đây là văn minh phương Tây) về các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa giáo dục và phổ biến nó trên một vi mô rộng lớn. Quá trình này đã diễn ra rất mạnh mẽ ở Nhật Bản vào thế kỉ XIX.
Đầu thế kỉ XIX, Nhật Bản lâm vào tình trạng suy yếu và đứng trước nguy cơ xâm lược của thực dân Âu – Mĩ. Trong khi Anh biến Ấn Độ thành thuộc địa (1787), sau đó chiếm Mã Lai, eo biển Malacca, xâm nhập vào Trung Quốc, Pháp xâm chiếm Đông Dương…thì Mĩ cũng bắt đầu tìm đường đến “mở cửa” Nhật Bản.
Tháng 7-1853, bốn chiến thuyền của Mĩ do Đô đốc Matthew C. Perry chỉ huy đã mang quốc thư của Tổng thống Mĩ Fillmore đến cảng Uraga (trong vịnh Tokyo) và yêu cầu Nhật Bản mở cửa và đặt quan hệ thông thương. Sự kiện này có thể được xem là mốc mở đầu cho quá trình tiếp xúc với những thành tựu khoa học kĩ thuật bên ngoài của Nhật Bản vì:
Tàu đâu tỉnh giấc thanh bình (Taihen no yume samasu jokisen)
Chỉ có bốn chiếc, giật mình không yên (Tatta yonhai de yoru mo neranezu)([3]).
Sự kiện này đã làm cho người Nhật bàng hoàng trước sự thay đổi của thế giới bên ngoài. Tháng 3-1854, Nhật Bản chính thức ký kết với Mĩ điều ước Kanagawa. Theo đó, Nhật Bản phải: 1- cung cấp nhiên liệu và thực phẩm cho tàu bè của Mĩ, 2- cứu trợ thủy thủ Mĩ bị tai nạn, 3- mở hải cảng Shimoda ở miền Nam bán đảo Izu và Hakodate ở Hokkaido làm địa điểm cung cấp nhiên liệu và thực phẩm cho tàu bè Mĩ, 4- xem Mĩ là “nước được ưu đãi nhất”, 5- thỏa thuận cho Mĩ đặt lãnh sự ([4]). Có thể xem đây là Hiệp ước bất bình đẳng đầu tiên Mạc phủ Tokugawa ký với nước ngoài. Nó cũng đánh dấu sự cáo chung của chính sách bế quan tỏa cảng với bên ngoài của Mạc phủ Tokugawa.
Theo sau Mĩ, các nước Anh, Nga, Hà Lan cũng bắt Nhật Bản ký kết các hiệp ước bất bình đẳng với họ. Những hiệp ước này được xem là bất bình đẳng vì “Nhật Bản không được đánh thuế vào các hàng nhập cảng của nước ngoài trên mức hải quan chiếu lệ và người nước ngoài không thuộc quyền xét xử của tòa án Nhật Bản mà phải được xử theo luật tại toàn án đặc biệt tại lãnh sự quán nước họ ([5]). Với hai nội dung trên, Nhật Bản đang đánh mất dần chủ quyền quốc gia của Nhật Bản. Do đó, những hiệp ước này đã gây nên nỗ bất bình trong nhân dân Nhật Bản. Đó cũng là nguyên nhân chính làm cho Mạc phủ mất đi niềm tin của nhân dân và sụp đổ vào năm 1868. Tuy nhiên, những sự kiện này cũng tạo ra sự tiếp xúc mạnh mẽ của người Nhật với nền văn minh bên ngoài.
1.1.           Những hệ quả “văn minh hóa” thời kì Tokugawa
Về kinh tế, từ giữa thế kỷ XVIII, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bắt đầu phát triển ở thành thị và nông thôn. Nhiều công trường thủ công xuất hiện và ngày càng phổ biến. Nông dân thường nhận nguyên liệu từ những chủ kinh doanh, sản xuất tại nhà và giao hàng cho chủ theo định kỳ (hình thức phường hội). Sản phẩm của họ làm ra đều thuộc về chủ, có nhiều nơi nông dân lĩnh lương của nhà buôn. Mỗi khu vực trong nước chuyên môn sản xuất một mặt hàng nào đấy.
Vào nửa sau thế kỷ XVIII, công trường thủ công sản xuất lụa vải xuất hiện ở nhiều tỉnh. Năm 1850, ở Tokyo có công trường sử dụng 10 – 20 máy dệt. Đến giữa thế kỷ XIX, các phiên quốc Tây Nam đã thành lập được các xưởng luyện thép, đóng tàu. Quá trình công nghiệp hóa xâm nhập mạnh mẽ vào nông nghiệp. Nhiều phiên quốc (han) chỉ tập trung sản xuất một số mặt hàng như bông sợi, trà, đồ sơn mài…và phục vụ cho quá trình xuất khẩu ra bên ngoài. Từ năm 1859, mậu dịch với các nước phương Tây tăng lên đáng kể. Những mặt hàng xuất chủ yếu là trà, dồ sơn mài, sợi tơ… Tuy nhiên, do xuất cảng không có kế hoạch nên đã gây ra tình trạng thiếu hụt hàng hóa trong nước, gây ra tình trạng giá cả tăng vọt.
Sự tiếp xúc với phương Tây cũng làm cho ý thức của các phiên quốc thay đổi từ chống phương Tây sang tiếp thu thành tựu của họ. Năm 1863, sau khi giao tranh với tàu chiến Mĩ, Pháp thất bài, phiên quốc Choshu thay đổi chính sách từ “chống phương Tây” sang trang bị cho quân đội theo hình mẫu của phương Tây. Choshu trở thành nơi đào tạo những người chỉ huy lục quân ưu tú nhất trong quân đội Nhật Bản cho đến chiến tranh thế giới thứ hai. Phiên quốc Satsuma sau khi thua Anh trong mùa hè năm 1863 cũng đã chuyển sang lập trường hòa hiếu với Anh. Người Anh cũng giúp Satsuma xây dựng lực lượng hải quân hiện đại nhất Nhật Bản. Satsuma cũng là nơi xuất than của các Bộ trưởng hải quân Nhật cho đến thế chiến thứ hai. Như vậy, quá trình văn minh hóa ở Nhật Bản đã làm thay đổi rất nhiều về kinh tế cũng như ý thức của các phiên quốc. Chính hai phiên quốc Choshu và Matsuma là những lực lượng giữa vai trò quan trọng trong cuộc “đảo Mạc” năm 1868.
Nhiều thành thị đông dân xuất hiện như Edo – nơi có số dân sinh sống lên đến 1 triệu người (gấp 2 lần dân số London bấy giờ), còn Osaka trở thành nơi tập hàng hoá khắp cả nước . Rõ ràng, sự xuất hiện của những trung tâm thương mại quy mô lớn đã tác động mạnh đến sự phân hoá xã hội và tạo tiền đề thuận lợi cho kinh tế tư bản chủ nghĩa du nhập và phát triển.
Về mặt xã hội, giai cấp tư sản bao gồm chủ các công trường thủ công và tầng lớp thương nhân kiêm cho vay – họ ngày càng giàu lên nhanh chóng, thế lực kinh tế của họ ngày càng lớn. Họ là chủ nợ của các võ sĩ và Đaimyo. Như vậy, sự phát triển của mầm móng kinh tế tư bản chủ nghĩa đã làm xuất hiện một giai cấp mới và ngày càng có ảnh hưởng đến xã hội là giai cấp tư sản.
Sự du nhập nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã làm cho hàng ngũ giai cấp phong kiến cũng có sự phân hóa sâu sắc. Các phiên quốc miền Bắc như Hokkaido có nền kinh tế kém phát triển và trở thành lực lượng bảo thủ, cản trở quá trình canh tân đất nước. Ở miền Nam, các phiên quốc Tây Nam như Hizen, Satsuma, Tosa, Choshu… đã sớm tiếp xúc với kinh tế tư bản chủ nghĩa nên ngày càng giàu mạnh lên và có xu hướng canh tân, chống lại sự bảo thủ và sự hạn chế của chế độ quân sự phong kiến. Do đó, họ là những thế lực đóng vai trò quan trọng trong cuộc “đảo Mạc” năm 1868.
Ngoài ra, tầng lớp Samurai (võ sĩ đạo) cũng có sự thay đổi quan trọng. Họ là những người được luyện cả văn lẫn võ, là người có học thức, có kiến thức tổ chức và quân sự, trong xã hội phong kiến họ là tầng lớp được ưu đãi. Thời cận đại, số lượng Samurai đã lên tới hơn hai triệu. Số lượng phát triển đông đảo làm cho các Đaimyo không đủ sức thỏa mãn những nhu cầu kinh tế của họ. Các võ sĩ lớp dưới bổng lộc thấp, không đủ sống trước sự phát triển của kinh tế hàng hóa, phải chuyển sang kinh doanh công thương nghiệp, hoặc làm bác sĩ, nhà giáo. Nhờ có học vấn nên họ nhanh chóng nắm được kiến thức mới. Họ trở thành bộ phận quý tộc bị tư sản hoá nên có tư tưởng chống lại những cản trở công việc sản xuất của chính quyền phong kiến. Họ gây áp lực với phiên chủ đòi thực hiện một số cải cách tiến bộ như giảm tô thuế cho nông dân vào những năm mất mùa, chú trọng phát triển công nghiệp, hàng hải, khuyến khích học tập khoa học tự nhiên... Đây là một nhân tố khá quan trọng cho cuộc cải cách của Minh Trị năm 1868.
Bên cạnh đó, tầng lớp thương nhân cũng này càng giữa vai trò quan trọng trong xã hội. Thương nhân Osaka đã có một vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế Nhật Bản. Những tập đoàn thương gia lúa gạo lớn đã nắm được mạch sống của đất nước. Do đó, thương nhân ngày càng trở thành lực lượng giàu có nhưng lại thiếu quyền lực và vị trí xã hội. Họ là tiền thân của giai cấp tư sản sau này ở Nhật Bản. Quá trình phát triển của họ vấp phải một hàng rào cản trở quan trọng là chế độ phong kiến. Vì thế, họ sớm có ý thức chống phong kiến để mở đường cho chủ nghĩ tư bản phát triển .
1.2.           Hệ quả quá trình “văn minh hóa” thời Minh Trị duy tân
Sau cuộc “đảo Mạc” năm 1868, chính quyền Minh Trị bắt đầu công cuộc duy tân đất nước theo phương Tây một cách mạnh mẽ và toàn diện. Công cuộc Minh Trị duy tân (Meiji Ishin) bắt đầu trên các lĩnh vực như:
Về kinh tế, nguồn thu chủ yếu từ địa tô không đáp ứng được nhu cầu đất nước. Từ tháng 9-1868 đến tháng 12-1872, chi phí tổng cộng của chính phủ là 148,3 triệu yên, trong khi nguồn thu chỉ 50,4 triệu yên([6]). Do đó, chính quyền Meiji đã thực hiện hàng loạt cải cách về tiền tệ, ngân hàng, địa tô. Họ bắt đầu xây dựng xưởng đúc tiền, quy định yên là đơn vị tiền tệ của Nhật Bản và thiết lập hệ thống ngân hàng quốc gia thống nhất như của Mĩ.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng ra sức xây dựng một nền công nghiệp hiện đại. Năm 1870 chính phủ Minh Trị đã cho thành lập Bộ công nghiệp và Bộ tài chính (1874). Chính phủ Minh Trị đã tập trung nguồn lực quốc gia, xây dựng cơ sở thiết bị và cơ sở công nghiệp. Năm 1869, Nhật cho khánh thành hệ thống điện tín Tokyo – Yokohama, Tokyo – Nagasaki (1873), đường điện thoại giữa Tokyo và Yokohama được sử dụng từ năm 1876.
Hệ thống đường xe lửa cũng được xây dựng và đưa vào sử dụng. Năm 1872, đường xe lửa Tokyo – Yokohama được khánh thành, khai thông đường xe lửa Osaka – Kobe năm 1874, Kyoto – Osaka năm 1877 và năm 1889, tuyến đường xe lửa nối liền Tokyo – Kobe hoàn thành. Hệ thống vận chuyển đường biển cũng được chú trọng, các công ty hàng hải cũng xuất hiện như Mitsubishi, Mitsui, Nihon Yusen Kaisha…cũng lần lượt được thành lập. Đến năm 1893, Nhật Bản có tổng cộng 2.000 dặm đường xe lửa, 100.000 tấn tàu chạy bằng hơi nước và 4.000 dặm đường điện tín([7]).
Trong nông nghiệp, tháng 9-1871 chính phủ đã cho phép nông dân được tự do canh tác. Tháng 2-1872, chính phủ bãi bỏ lệnh cấm mua bán đất đai. Chính quyền mới cũng tiến hành cải cách địa tô từ năm 1873-1881. Việc bãi bỏ những quy định về quyền sở hữu cho phép tự do kinh doanh, mua bán đất đai, ban hành chính sách thuế thống nhất bằng 3% giá đất… có ý nghĩa như một cuộc cách mạng ruộng đất trong lịch sử Nhật Bản. Như vậy, những cải cách về ruộng đất, đầu tư vào công nghiệp, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, thông tin liên lạc…đã mạng lại sự thay đổi tích cực cho nền kinh tế Nhật Bản. Từ đó, Nhật Bản từng bước phát triển và trở thành cường quốc châu Á cuối thế kỉ XIX.
Như vậy, từ khi tiếp xúc với các nước phương Tây, Nhật Bản đã tiến hành cuộc duy tân và có nhiều chuyển biến quan trọng về kinh tế, xã hội, quân sự. Nhật Bản từng bước trở thành một cường quốc Á châu vả thoát khỏi sự xâm lược của đế quốc. Trong những nội dung cải cách đó, quan trọng nhất là cuộc cải cách về giáo dục. Vậy quá trình văn minh hóa trong giáo dục ở Nhật Bản như thế nào?
2.      Tác động của quá trình văn minh hóa đến nền giáo dục Nhật Bản
Một trong những nguyên nhân quan trọng để chuyến Nhật Bản từ một nước phong kiến lạc hậu trở thành một cường quốc tư bản chủ nghĩa là cải cách về giáo dục. Từ thời Mạc phủ Tokugawa, bên cạnh nền văn hoá Nho học (Tống Nho) đã xuất hiện một nền văn hoá mới – văn hoá Chonin([8]) của những người thuộc tầng lớp thấp trong xã hội nhưng lại có thế lực về kinh tế. Họ đã sớm tiếp thu văn minh phương Tây và hình thành nên phong trào Lan học (Rangaku). Nơi tiếp xúc sớm nhất với văn minh phương Tây là khu buôn bán của người Hà Lan ở Nagasaki. Người Hà Lan thường cử những đoàn sứ giả đến Edo để tạo lập quan hệ với Nhật Bản. Nhiều học giả của Rangaku đã đến đây và học hỏi những kiến thức mới từ Hà Lan.
Rangaku là phong trào nghiên cứu khoa học và kĩ thuật của phương Tây bằng tiếng Hà Lan. Với sự khuyến khích của chính quyền Tokugawa, phong trào Rangaku đã nghiên cứu học hàn lâm viện, y học, địa lý, hàng hải… Mặt khác,  từ khi chứng kiến sức mạnh của Mĩ (1853), chính quyền Bakufu cũng bắt đầu tìm cách đào tạo người thông thạo về ngôn ngữ Tây phương và khoa học hiện đại. Năm 1857, Bakafu cho thành lập Viện nghiên cứu sách phương Tây (Bansho shirabesho) ở Edo để chủ yếu giảng dạy tiếng Hà Lan, nghiên cứu khoa học của Hà Lan. Đến năm 1860, Viện này mở rộng việc giảng dạy ngôn ngữ các nước phương Tây khác. Đến thời Minh Trị, Viện nghiên cứu sách phương Tây trở thành Trung tâm nghiên cứu phương Tây của chính phủ. Có thể nhận thấy, chính quyền Bakufu đã bước đầu nhận thức được vai trò của việc tiếp giáo dục phương Tây vào Nhật Bản và việc làm này đã tạo tiền đề cho cải cách ở Nhật Bản sau này thuận lợi hơn.
Chưa dừng lại ở đó, năm 1860 và 1861, Bakufu còn cử 2 phái đoàn sang Mĩ và châu Âu để học hỏi từ các nước phương Tây. Qua hai chuyến đi này, các tùy viên của phái đoàn cũng đã ý thức được vai trò của việc tiếp thu văn minh của các nước Âu-Mĩ. Đây là tiền đề quan trọng cho cuộc duy tân sau này của Nhật Bản. Nhờ những nỗ lực của chính quyền Bakufu, hầu hết các quan chức cao cấp hoặc những người Nhật có học thức cao đều nhận thức được sự lạc hậu của Nhật Bản về một số lĩnh vực như thiên văn học, y học, địa lý, hàng hải… Do đó, người Nhật bắt đầu chú trọng vào việc giáo dục khoa học và thực hành trong chương trình giảng dạy của mình.
Những học giả Rangaku ngày càng trở nên bất mãn với chính sách đóng cửa, lỗi thời của chính quyền Tokugawa. Trước sự can thiệp và đòi “mở cửa Nhật Bản” của các nước phương Tây, phong trào Rangaku mở rộng đối tượng nghiên cứu không chỉ nước Hà Lan mà còn bao gồm các nước châu Âu khác. Từ đó, Rangaku trở thành Yogaku – Dương học để nghiên cứu về các nước phương Tây([9]). Những thức giả tiêu biểu cho phong trào này là Hayashi Shihei, Honda Toshiaki, Sato Nobuhiro…
Hayashi Shihei viết cuốn Kaikoku Heidan (Hải quốc binh đàm) kêu gọi Nhật Bản, một nước bốn bề là biển, áp dụng kỹ thuật và khí giới Tây phương để canh phòng tàu bè nước ngoài.
Honda Toshiaki chủ trương cần khuếch trương mậu dịch để chấn hưng Nhật Bản. Vì Nhật Bản là “hải quốc” nên việc mở mang giao thông, mậu dịch đường biển là trách nhiệm của chính quyền. Chính quyền phải đưa ra những chính sách tích cực để biến Nhật Bản thành một nước giàu mạnh như các nước Tây phương.
Sato Nobuhiro xem việc chấn hưng kinh tế là biện pháp duy nhất đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc và “Nhật Bản là trục quay của các nước khác…có địa thế thuận tiện dễ chinh phục các nước khác mà khó bị các nước khác chinh phục”([10]).
Như vậy, phong trào Rangaku và sau đó là Yogaku đã mở đầu quá trình tiếp xúc với văn minh phương Tây ở Nhật Bản. Do đó, những người theo các phong trào này là những người đi tiên phong, thức tỉnh quần chúng trong nước về những tiến bộ của phương Tây sau Cách mạng công nghiệp. Hayashi Shihei, Honda Toshiaki, Sato Nobuhiro…là những người nhận ra được chính sách “bế quan toả cảng” của Mạc Phủ Tokugawa đã lỗi thời. Họ chủ trương mở cửa để giao dịch với thế giới bên ngoài để cứu nguy cho Nhật Bản. Các bậc thức giả này cũng yêu cầu phải “tiếp thu khoa học kĩ thuật của phương Tây để chấn hưng kinh tế, phát triển quốc phòng và bành trướng thế lực ra bên ngoài”. Rõ ràng, những chính sách này là nguyên mẫu chính sách phú quốc cường binh của chính quyền Minh Trị sau này. Do đó, những tư tưởng mới này là nhân tố tích cực cho cuộc Duy tân Minh Trị thành công.
Mặt khác, một học giả rất nổi tiếng và có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc Duy tân của Minh Trị là Fukuzawa Yukichi. Theo ông, "Đường giao thông trên thế giới là phương tiện để làn gió của văn minh phương Tây thổi vào phương Đông. Khắp mọi nơi, không có cỏ cây nào có thể ngăn được làn gió văn minh này"([11]). Ông đã đưa ra thuyết “Thoát Á” (quan điểm thoát li khỏi châu Á) và cho rằng “… Nhật Bản bên cạnh các nước Trung Quốc và Triều Tiên không khác gì trường hợp trong một làng có một người sống bên cạnh toàn những người ngu đần, vô trật tự, hung bạo và nhẫn tâm thì dù người đó có là người đúng đắn lương thiện đến đâu đi chăng nữa cũng bị nhiều người khác cho rằng là “cá mè một lứa”. Do đó, Nhật Bản phải tiếp thu văn minh phương Tây và “tốt hơn hết chúng ta hãy tách ra khỏi hàng ngũ các nước Châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây”([12]). Có như thế, Nhật Bản mới thoát khỏi số phận của các dân tộc châu Á bị lệ thuộc, thống trị bởi thế lực đế quốc.
Như vậy, từ cuối thời Tokugawa, Nhật Bản đã bắt đầu diễn ra quá trình tiếp thu văn minh Tây phương và đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục. Nhật Bản đã dần thoát khỏi cái khuôn khổ của nền giáo dục Nho học Đông phương và chú trọng đến khoa học kĩ thuật Tây phương. Đây là tiền đề quan trọng cho cuộc duy tân năm 1868.
Sau cuộc đảo Mạc thành công, chính quyền trở về tay Thiên hoàng Minh Trị (Meiji). Năm 1868, Minh Trị tiến hành cuộc duy tân (Meiji Ishin). Nội dung quan trọng nhất trong cuộc duy tân này là lĩnh vực giáo dục.
Năm 1871, chính quyền thành lập Bộ giáo dục và ban hành một chế độ giáo dục thống nhất trong cả nước (1872). Hệ thống giáo dục tiểu học được hoàn thiện và trẻ em cả nam lẫn nữ từ 6 đến 12 tuổi đều được đi học tại các trường tiểu học ở các địa phương. Ngoài ra, chính phủ còn tham khảo thêm chế độ giáo dục của Pháp và chia cả nước thành 8 khu đại học, mỗi khu đại học chia làm 32 khu trung học, mỗi khu trung học chia làm 10 khu tiểu học. Bên cạnh đó, chính phủ còn ban hành Lệnh cưỡng bức giáo dục, buộc trẻ em (không kể nam hay nữ) đều phải học ít nhất là 3 năm. Năm 1875, Nhật Bản có 54% phái nam và 19% phái nữ học xong tiểu học 6 năm([13]). Thành tựu này ở châu Á thời đó chưa hề có, nó sánh vai với những phát triển ở những nước tiên tiến nhất của châu Âu([14]).
Chính phủ cũng chú trọng việc mời các giáo sư người Anh, Pháp, Đức, Mĩ về Nhật Bản để giảng dạy. Từ năm 1868 – 1911, Nhật đã mời khoảng 170 người ngoại quốc sang làm việc trong lĩnh vực giáo dục. Nhiều học giả nước ngoài đã có công lớn đến thành tựu văn minh hóa ở Nhật Bản như Ludwig Reiss (người Đức) giúp thiết lập Trung tâm nghiên cứu lịch sử ở đại học Đông Kinh; H. Roessler và A. Mosse đã giúp soạn thảo Hiến pháp Minh Trị; Erasmus Smith dạy về kĩ thuật ngoại giao hiện đại…
 Đặc biệt, chính phủ rất chú trọng đến việc đổi mới phương pháp và nội dung của giáo dục. Phương pháp giáo dục được chú trọng nhiều nhất là sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học như tranh ảnh, bản đồ, hình mẫu cụ thể… Lối học “tầm chương trích cú” bị phê phán mà nhấn mạnh việc thực học gắn với đời sống, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh.
Về nội dung, việc học tập hướng vào nâng cao lòng yêu nước, lòng trung thành với Thiên hoàng, cống hiến hết mình cho đất nước. Với khẩu hiệu “khoa học phương Tây và đạo đức phương Đông”([15]), giáo dục Nhật chú trọng giảng dạy khoa học kĩ thuật ứng dụng, kỹ thuật thương mại, ngân hàng…Ngoại ngữ được chú trọng – đặc biệt là Tiếng Anh. Năm 1874, Nhật Bản có 91 trường dạy tiếng nước ngoài và có 13.000 sinh viên học tập([16]. Như vậy, Nhật Bản là một trong những nước sớm nhất ở châu Á đã tiếp thu và vận dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật phương Tây vào giáo dục.
Nhật Bản cũng đưa các học thuyết triết học phương Tây vào các trường học và phổ biến cho giới lãnh đạo quốc gia. Nhiều tác phẩm nổi tiếng như Tinh thần pháp luật của Montesquieu, Khế ước xã hội của J.J. Rousseau…đã được dịch sang tiếng Nhật. Sau 20 năm Minh Trị duy tân đã có 633 đầu sách của phương Tây đã được dịch ra tiếng Nhật. Đây là một thành tựu quan trọng để người Nhật tiếp xúc được với những tư tưởng tiến bộ bên ngoài và góp phần xây dựng, phát triển đất nước.
Song song với việc mời giáo sư nước ngoài về trong nước để dạy học, chính phủ còn đây mạnh việc đưa học sinh sang phương Tây du học. Từ năm 1862, chính phủ Nhật đã cử những thanh niên ưu tú sang các nước Âu-Mĩ để học tập. Hai nước có nhiều du học sinh Nhật nhất là Mĩ và Anh. Năm 1873, Nhật Bản có 373 sinh viên du học ở các nước phương Tây. Nhật Bản gởi sinh viên sang Anh để học về hải quân, hàng hải, sang Đức để học bộ binh, y khoa và sang Mĩ để học kinh doanh, sang Pháp học về luật… Sau khi tốt nghiệp, họ trở về phục vụ đất nước, hình thành đội ngũ trí thức hiện đại và giữ những chức vụ cao trong chính quyền. Họ là những nhấn tố tích cực để đưa Nhật phát triển nhanh theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, trong lúc các quốc gia phong kiến Đông phương khác như Trung Quốc, Việt Nam vẫn còn đang mãi mê chìm đắm trong đêm trường trung cổ với nền giáo dục “tầm chương trích cú”, đề cao văn chương, lễ nghi Nho giáo để cuối cùng trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc vào đế quốc thì Nhật Bản đã chuyển mình vươn lên thành cường quốc số một châu Á. Thành tựu này là kết quả quan trọng quá trình văn minh hóa ở Nhật Bản thế kỉ XIX. Đặc biệt, nền giáo dục Nhật Bản từng bước thoát khỏi khuôn khổ Nho giáo Đông phương và xây dựng, cải tiến theo mô hình của các nước tiến bộ như Mĩ, Anh, Pháp, Đức…Sự thay đổi này đã tác động tích cực đến sự chuyển biến của Nhật Bản vào nữa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Do đó, có thể nói “quá trình văn minh hóa giáo dục thế kỉ XIX là một trong những nhân tố quan trọng để Nhật Bản phát triển đất nước, trở thành cường quốc Á châu, thoát khỏi sự xâm lược của đế quốc”. Đây cũng là bài học kinh nghiệm cho các nước nói chung, Việt Nam nói riêng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
3.      Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Nhìn lại quá trình văn minh hóa giáo dục và những thành công của Nhật Bản trong quá trình cận đại hóa, chúng tôi rút ra được những bài học cần thiết phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất: nhà nước phải quan tâm, đầu tư cho giáo dục. Chính phủ Việt Nam luôn cho rằng “giáo dục là quốc sách hàng đầu” nhưng thật sự thì sự đầu tư cho giáo dục còn rất nhiều vấn đề bất cập như lạc hậu trong chương trình giảng dạy. Hầu hết các giáo trình áp dụng tại các trường đại học (đặc biệt là các ngành khoa học kĩ thuật) đề đã lạc hậu rất nhiều so với các nước trong khu vực. Do đó, việc mời chuyên gia, giáo sư nước ngoài về giảng dạy cho sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp xúc được với những tiến bộ bên ngoài là cần thiết.
Thứ hai, chính phủ phải xây dựng một “triết lý giáo dục” phù hợp với những yêu cầu của xã hội. Hiện nay, nền giáo dục Việt Nam đang tỏ ra rất lạc hậu về nội dung lẫn phương pháp giảng dạy. Thời gian qua, những bất cập trong giáo dục đã tạo ra tầng lớp trí thức thụ động, thiếu sự sáng tạo (nếu không nói là không dám sáng tạo) trong học tập. Nội dung giảng dạy còn nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn và không còn phù hợp với thời đại. Bên cạnh đó, phương pháp giáo dục, đào tạo của Việt Nam cũng chú trọng đào tạo ra người có đức nhiều hơn là người có tài. Người học được giới hạn trong mộ khuôn mẫu, quy trình cụ thể nên không thể có sự năng động, tích cực trong tư duy lẫn hành động. Vì vậy, sự thay đổi về nội dung và phương pháp đào tạo nguồn nhân lực là vấn đề cấp thiết.
Thứ ba, quá trình đưa học sinh đi du học cũng còn rất nhiều vấn đề bất cập như: chưa có chiến lược, kế hoạch cụ thể; phong trào du học còn mang tính tự phát, chủ yếu là do các con em gia đình giàu có đi học mà thôi. Chúng tôi đang trực tiếp giảng dạy trong trường Quốc tế và nhận thấy một thực trạng là phần lớn du học sinh của Việt Nam đều đang ở tuổi trung học phổ thông, nền tảng kiến thức còn hạn chế nhưng gia đình có tiền nhiều nên cho con đi du học tự túc. Thậm chí không ít trường hợp, học sinh không thi đậu được đại học trong nước và một giải pháp khác là cho con đi du học. Bên cạnh đó, số lượng du học sinh đi học do quan hệ, con em cháu cha…chiếm tỉ lệ rất lớn trong lượng du học sinh ở các nước. Họ với trình độ thấp, năng lực kém và “đi du lịch” đúng hơn là “đi du học”. Do đó, chất lượng du học sinh còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải có chiến lược, kế hoạch cụ thể trong việc đưa học sinh sang các nước du học. Đồng thời, phải mở rộng phạm vi các nước đến du học. Đặc biệt, những đối tượng được chọn đi du học phải là những người có năng lực thực sự, có trình độ ngoại ngữ đáp ứng được yêu cầu của công việc học tập, nghiên cứu và có ý thức dân tộc, ý thức về quyền và nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước. Có như thế mới hi vọng lực lượng du học sinh có nhiều đóng góp với sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, chính phủ phải có chính sách trọng dụng nhân tài – đặc biệt là đối với những du học sinh trở về nước. Đây thực sự là một vấn đề bỏ ngõ từ lâu ở Việt Nam, nhiều du học sinh đã lấy bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ về nước nhưng không có vị trí làm việc và mức lương tương xứng. Rất nhiều người đã bỏ cơ quan nhà nước để đi làm cho các công ty 100% vốn nước ngoài. Thực trạng “chảy máu chất xám” trầm trọng đang diễn ra trong tất cả các ngành – nhiều nhất là giáo dục. Thử hỏi, một Tiến sĩ Pháp về công tác tại trường đại học với mức lương 3 – 4 triệu đồng/ tháng thì họ sống bằng cái gì? Mức lương của ngành giáo dục hiện tại cũng là một vấn nạn. Một cử nhân ra trường, mức lương là 2.34 x 1.050.000đ = 2.457.000đ/tháng. Với mức lương này thì làm sao ngành giáo dục có thể thu hút được người học, người tài? Làm sao đủ để có “chén cơm đầy đặn” cho gia đình và có thời gian để học tập, nghiên cứu?
Nhìn lại Nhật Bản, từ thời Minh Trị đã chú trọng đến tất cả những điều chúng tôi đã trình bày mà chạnh lòng cho nền giáo dục nước nhà. Nói nền giáo dục Việt Nam còn lạc hậu hơn Nhật Bản gần 150 năm cũng không quá đáng. Thiết nghĩ trong bối cảnh hội nhập hiện nay, chúng ta có điều kiện tiếp xúc với các mô hình giáo dục tiên tiến thế giới (trong đó có Nhật Bản), chúng ta cần phải biết học hỏi, tiếp thu những ưu điểm của họ để cải cách nền giáo dục quốc dân. Có như vậy, Việt Nam mới có thể thu ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới.
Kết luận
Cách nay gần 150 năm, Thiên hoàng Minh Trị đã tiến hành cuộc duy tân đất nước. Trong đó, sự cải cách trong giáo dục là nhân tố quan trọng để đưa Nhật Bản thoát khỏi thân phận thuộc địa và trở thành cường quốc châu Á. Với khẩu hiệu “học hỏi phương Tây, đuổi kịp phương Tây và vượt qua phương Tây”, người Nhật đã tiếp thu giáo dục phương Tây để đem về phát triển đất nước. Sự thành công của nền giáo dục Nhật Bản không thể thiếu vai trò lãnh đạo đất nước hiệu quả của chính phủ.
Hiện nay, Việt Nam đang trên đường phát triển và hội nhập với nền giáo dục thế giới. Thiết nghĩ, việc nghiên cứu những chính sách về giáo dục của Nhật Bản thời cận đại để áp dụng vào việc đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm cấp thiết. Những bài học về cải cách giáo dục của chính phủ Minh Trị vẫn là những kinh nghiệm quý báu đối với Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.   Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhật Bản, NXB Văn hóa Thông tin.
2.   Fukugawa Yukichi (15/01/2010), Thoát Á luận, Hải Âu, Kuriki Seiichi dịch, http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-01-14-thoat-a-luan
3.   Phạm Thị Thu Giang (2012), “Fukuzawa Yukichi (1835-1901) và sự nghiệp khai hóa văn minh Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2(132) 2-2012.
4.   Phan Ngọc Liên (cb, 2005), Lịch sử thế giới cận đại, NXB ĐHSP, Hà Nội.
5.   Nguyễn Tiến Lực (2010), Minh Trị Duy tân và Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam.
6.   R.H.P Mason & J.G.Caiger (2008), Lịch sử Nhật Bản, Nguyễn Văn Sĩ dịch, NXB Lao Động.
7.   Vĩnh Sính (1991), Nhật Bản cận đại, NXB TP.HCM.


[1] TS, Khoa Sư phạm Khoa học xã hội – Trường Đại học Sài Gòn
[2] Phạm Thị Thu Giang (2012), “Fukuzawa Yukichi (1835-1901) và sự nghiệp khai hóa văn minh Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2(132) 2-2012, tr 31.
[3] Vĩnh Sính (1991), Nhật Bản cận đại, NXB TP.HCM, tr 88.
[4] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 89.
[5] R.H.P Mason & J.G.Caiger (2008), Lịch sử Nhật Bản, Nguyễn Văn Sĩ dịch, NXB Lao Động, tr  303.
[6] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 118.
[7] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 122.
[8] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 66
[9] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 75
[10] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 76 – 77.
[11] Fukugawa Yukichi (15/01/2010), Thoát Á luận, Hải Âu Kuriki Seiichi dịch,  nguồn http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-01-14-thoat-a-luan
[12] Fukugawa Yukichi, http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-01-14-thoat-a-luan
[13] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 123.
[14] R.H.P Mason & J.G.Caiger (2008), sđd, tr 352.
[15] Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhật Bản, NXB Văn hóa Thông tin, tr 117.
[16] Vĩnh Sính (1991), sđd, tr 125.