22/3/12

CNTT trong Đào tạo theo Hệ thống tín chỉ


VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC MÔN LỊCH SỬ
THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
ThS Lê Tùng Lâm[1]
ĐẶT VẤN ĐỀ
Công nghệ thông tin ngày càng có vai trò quan trọng và có tác động mạnh mẽ đến tất cả các mặt đời sống xã hội. Công nghệ thông tin đang trở thành một trong những công cụ hữu hiệu thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội và cả trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Cụm từ “ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học” ngày càng được nhiều người nhắc đến trong các trường cao đẳng và đại học. Trong bối cảnh nền giáo dục nước ta đang chuyển dần từ đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng càng trở nên cấp thiết. Vậy công nghệ thông tin là gì? Công nghệ thông tin có vai trò gì trong việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ nói chung và với bộ môn Lịch sử nói riêng?…Đó là những vấn đề vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn, đang thu hút sự quan tâm của nhiều giảng viên, sinh viên ở Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội nói riêng và trường Đại học Sài Gòn nói chung.

NỘI DUNG

1. Khái niệm Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin ( IT – Information Technology) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, cũng là ngành sử dụng máy tính và các phần mềm của nó để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu nhập thông tin. Theo Nghị quyết 49/CP của Chính phủ ngày 4 tháng 8 năm 1993 thì “công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại- chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông- nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”[2].
Như vậy, công nghệ thông tin là tập hợp các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại như máy tính, máy chiếu Projector, mạng Internet… để cung cấp nguồn tài nguyên vô cùng phong phú, đa dạng cho mọi lĩnh vực trong đời sống con người và xã hội. Đặc biệt, ngày nay Internet với các kết nối băng tầng rộng đã đi tới tất cả các trường học (cả đại học, cao đẳng, trung cấp và các trường phổ thông) đã giúp cho việc ứng dụng các kiến thức, kĩ năng và hiểu biết về công nghệ thông tin vào dạy học đã dần trở thành hiện thực.

2. Công nghệ thông tin với việc Đào tạo theo Hệ thống tín chỉ
Đào tạo theo Hệ thống tín chỉ là phương pháp đào tạo mới – lấy người học làm trung tâm. Người học vừa đóng vai trò là người tiếp nhận kiến thức, vừa là người chủ động tạo ra kiến thức nhằm hướng tới đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Theo khoản 1 Điều 19 của Quy chế đào tạo Đại học và Cao đẳng theo hệ thống tín chỉ “…điểm tổng hợp đánh giá học học phần được tính căn cứ vào một phần hoặc tất cả các điểm đánh giá bộ phận, bao gồm: điểm kiểm tra thường xuyên trong quá trình học tập; điểm đánh giá nhận thức và thái độ tham gia thảo luận; điểm đánh giá phần thực hành; điểm chuyên cần; điểm thi giữa học phần; điểm tiểu luận và điểm thi kết thúc học phần, trong đó, điểm thi kết thúc học phần là bắt buộc cho mọi trường hợp và có trọng số không dưới 50%”[3]. Như vậy, theo Quy chế này, Đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi người học phải đảm bảo 3 yếu tố sau:
- Người học phải đảm bảo thời gian học tập trên lớp, tham gia thảo luận, thuyết trình và thi kết thúc học phần. Đây là một khó khăn cho người học. vì phải có đủ thời gian tham gia học tập trên lớp. Do đó, người học phải chủ động sắp xếp thời gian để tham gia trong quá trình học tập sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Muốn vậy, sinh viên phải nắm được toàn bộ chương trình học theo từng học kì hoặc từng năm học để có kế hoạch đăng ký tham gia học tập cho hợp lí. Sinh viên phải thường xuyên cập nhập các thông tin môn học, đăng ký học tập qua mạng Internet. Do đó, công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong việc phân phối quá trình học tập của sinh viên.
- Người học phải có thời gian hoạt động thực tế bộ môn như làm ở các phòng thí nghiệm, thực tập chuyên môn, hoặc làm các phần việc khác…
- Người học phải có thời gian tự học. Ngoài giờ học ở lớp, sinh viên phải tự tìm các nguồn tư liệu như: sách, báo, tư liệu trên mạng Internat… để chuẩn bị cho các bài thuyết trình của mình. Do đó, việc tìm tài liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng. Công nghệ thông tin với những nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng sẽ góp phần rất lớn trong việc đảm bảo yêu cầu tìm tòi, học tập của sinh viên.
Như vậy, các yêu cầu trên trong Hệ thống tín chỉ nhằm đảm bảo cho quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên được kết quả cao nhất để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Muốn vậy, sinh viên phải dựa vào các công cụ hỗ trợ như: các phần mềm quản lí của nhà trường, mạng Internet… để có thể chủ động trong việc đăng ký môn học, thời gian học, tìm tài liệu cho quá trình học tập… Vì vậy, sự ứng dụng công nghệ thông tin vào học tập theo hệ thống tín chỉ là cần thiết.
Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin và công tác dạy – học cũng mang tính cấp thiết vì:
Thứ nhất, nó phù hợp với yêu cầu của thời đại vì “thời đại tin học thật sự đến rồi và thời đại công nghiệp coi như kết thúc. Nền giáo dục của thời đại công nghiệp nay không còn thích hợp với xã hội nữa”[4]. Trong hệ thống giáo dục của phương Tây, công nghệ thông tin chính thức được đưa vào chương trình giảng dạy ở các bậc học. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về công nghệ thông tin đã có ích cho tất cả các môn học khác nhau. Do đó, việc ứng dụng nó vào dạy học ở các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Thứ hai, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ: “từng bước phát triển giáo dục dựa trên công nghệ thông tin…công nghệ thông tin và đa phương tiện sẽ tạo ra thay đổi lớn trong hệ thống quản lí giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học[5].  Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xác định con đường phát triển cho giáo dục Việt Nam là “dựa trên công nghệ thông tin” và nó là phương tiện để thúc đẩy cuộc “cách mạng về phương pháp dạy và học” – nghĩa là thay đổi phương pháp dạy học trong nhà trường.
Tóm lại, công nghệ thông tin đang ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền giáo dục. Đó là những công cụ hỗ trợ tích cực cho công cuộc đổi mới phương pháp đào tạo ở trường đại học, cao đẳng…của Việt Nam. Do đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc đào tạo theo hệ thống tín chỉ là cần thiết.

3. Sử dụng Công nghệ thông tin trong việc dạy – học môn Lịch sử theo hệ thống tín chỉ ở trường đại học, cao đẳng.
Lịch sử là những gì đã diễn ra theo thời gian trong toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của con người và xã hội loài người, là bản thân đời sống xã hội qua các giai đoạn tiến triển khác nhau và cả giới tự nhiên trong phạm vi những gì có liên quan đến con người[6]. Hay nói cách khác, Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ của xã hội loài người. Nó đã tồn tại cách chúng ta hàng chục năm, hàng trăm năm, thậm chí hàng triệu năm. Do đó, việc tiếp cận và tái hiện lại lịch sử gần giống như nó đã từng tồn tại là rất khó khăn. Nó đòi hỏi rất nhiều nguồn tư liệu như: hình ảnh, bản đồ….Vì thế, nó rất cần sự hỗ trợ từ công nghệ thông tin. Vậy công nghệ thông tin có vai trò gì với hoạt động học của sinh viên và hoạt động dạy của giáo viên?

3.1. Đối với sinh viên
Trước hết, công nghệ thông tin sẽ giúp cho sinh viên khắc phục được khó khăn về nguồn tài liệu học tập. Khó khăn khách quan đối với sinh viên là nguồn tư liệu ít và chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu học tập của họ. Để viết một bài thuyết trình, thảo luận về một vấn đề lịch sử, sinh viên cần rất nhiều nguồn sử liệu khác nhau. Do đó, những tư liệu, hình ảnh, bản đồ…trên mạng Internet là công cụ cần thiết để sinh viên tiếp cận, tái hiện và hiểu đúng bản chất của một sự kiện lịch sử.
Thứ hai, công nghệ thông tin là phương tiện để sinh viên trao đổi tư liệu, thảo luận qua mạng với nhau. Ví dụ, gặp một vấn đề nào đó khó hiểu, sinh viên có thể chia sẻ với bạn bè, thầy cô cố vấn học tập hoặc với giảng viên bộ môn của mình qua thư điện tử, tin nhắn…. Từ đó, hình thành cho sinh viên kĩ năng làm việc theo nhóm, chia sẻ thông tin với nhau trong quá trình học tập.
Thứ ba, công nghệ thông tin cũng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành kĩ năng thuyết trình của sinh viên. Một bài thuyết trình được xem là mạch lạc, khúc chiết và đúng trọng tâm khi nó có những công cụ hỗ trợ như phần mềm như Powerpoint, Activestudio… Ví dụ, khi sinh viên trình bày về diễn biến một trận đánh, nếu có hình ảnh minh họa, bản đồ, phim tư liệu…thì sẽ tạo được ấn tượng và đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, công nghệ thông tin cũng giúp sinh viên thêm tự tin và giải quyết vấn đề chính xác, nhanh chóng hơn.

3.2. Đối với giảng viên
Việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ cũng đòi hỏi giảng viên phải thay đổi phương pháp giảng dạy sang “lấy người học làm trung tâm”. Theo quy định của Luật giáo dục, giảng viên phải chuyển dần từ phương pháp dạy học truyền thống (giảng viên giữ vai trò trung tâm) sang phương pháp dạy học tích cực – lấy sinh viên làm trung tâm của hoạt động dạy và học, để sinh viên có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hứng thú trong học tập. Ngoài ra, giảng viên còn phải bồi dưỡng cho sinh viên kĩ năng nhận thức bản chất các vấn đề lịch sử, có năng lực tư duy độc lập và vận dụng sáng tạo kiến thức đã học vào thực tiễn. Để đạt mục tiêu trên, giảng viên phải tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học vì:
Thứ nhất: công nghệ thông tin sẽ góp phần hiện đại hóa các phương tiện dạy học, các phần mềm dạy học như Activestudio, Powerpoint…sẽ giúp giảng viên tạo bài giảng phù hợp nhu cầu của sinh viên, giúp họ có nhiều phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp cho giảng viên tạo ra một lớp học mang tính tương tác hai chiều: giảng viên –sinh viên và ngược lại. Điều này phù hợp với quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo vì “học là quá trình thu nhận thông tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thông tin; dạy là quá trình phát thông tin và giúp người học thực hiện quá trình trên một cách có hiệu quả”[7] . Do đó, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp người học tiếp nhận thông tin bài học hiệu quả hơn và nhanh chóng biến những thông tin đó thành kiến thức của mình. Đồng thời, nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thông qua việc khai thác nhiều giác quan khác nhau để lĩnh hội tri thức.
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giảng viên rút ngắn thời gian giảng dạy, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo tình huống có vấn đề để kích thích tư duy sáng tạo của sinh viên. Sinh viên có thể dễ dàng hình dung và có khái niệm chính xác về các hình ảnh, sự vật, hiện tượng khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan (hình tư liệu, bản đồ, những đoạn phim tư liệu …). Bài giảng có ứng dụng công  nghệ thông tin của giảng viên sẽ trở nên sinh động hơn, dễ hiểu hơn và tạo hứng thú cho người học. Ví dụ, khi giảng về bài Xã hội nguyên thủy (trong chương trình môn: Lịch sử thế giới nguyên thủy – cổ đại), giảng viên cung cấp cho sinh viên những hình ảnh về cảnh sinh hoạt của người nguyên thủy, cảnh săn bắt thú rừng, cảnh tạo ra lửa … sẽ giúp sinh viên dễ dàng hình dung ra cuộc sống đương thời của người nguyên thủy.
Thứ ba, việc khai thác tư liệu từ mạng Internet cũng sẽ giúp cho giảng viên có nhiều nguồn tư liệu cập nhật khác nhau với những quan điểm khoa học khác nhau về một sự kiện lịch sử sẽ giúp cho cả giảng viên lẫn sinh viên có một cách nhìn khách quan hơn, chuẩn xác hơn về vấn đề đó. Từ đó, giảng viên sẽ định hướng cho sinh viên cách tiếp cận vấn đề khoa học hơn.
Như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy – học bộ môn Lịch sử theo Hệ thống tín chỉ là cần thiết đối với cả giảng viên lẫn sinh viên. Nó vừa đáp ứng được yêu cần của bộ môn, vừa đảm bảo được sự năng động, sáng tạo trong tư duy của người học.

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự chuyển biến tích cực của nền giáo dục Việt Nam, việc ứng dụng công nghệ thông vào giảng dạy theo Hệ thống tín chỉ là cấp thiết vì nó đáp ứng được những yêu cầu của chương trình đào tạo. Đối với bộ môn Lịch sử, điều này càng cần thiết hơn vì nó giúp sinh viên chủ động hơn trong kế hoạch học tập của mình. Sinh viên có thể tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu khác nhau để có thể tái hiện lại lịch sử giống như nó đã từng tồn tại. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ thông vào dạy học cũng giúp giảng viên có nhiều thời gian hơn để dẫn dắt sinh viên nắm bắt vấn đề, tạo tình huống có vấn đề để kích thích sự tư duy sáng tạo của người học. Mặt khác, nó cũng sẽ giúp sinh viên chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức. Từ đó, hình thành cho người học kĩ năng độc lập trong tư duy và hứng thú, hăng say trong học tập.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. http://vi.wikipedia.org/wiki/khoa-hoc-thong-tin.



[1] Giảng viên Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội – Trường Đại học Sài Gòn
[2] http://vi.wikipedia.org/wiki/khoa-hoc-thong-tin.
[3]  Bộ GD&ĐT, Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT)
[4] Huỳnh Minh Trí, Nguyễn Đăng Quang…(2006), Giáo trình Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, tài liệu lưu hành nội bộ, Khoa Tin học trường CĐSP Thành phố Hồ Chí Minh, tr 2.
[5] Huỳnh Minh Trí, sđd, tr 3
[6] Nguyễn Thế Kim, Nhập môn Sử học, Tập Bài giảng, khoa Lịch Sử, trường ĐHSPTPHCM, 1999, tr7.
[7] Bộ GD&ĐT, Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên, Thực hiện chương trình Sách giáo khoa Lịch sử 11, NXB GD, 2007, tr 25.

Chính sách Lương thực của Nhật Bản


VẤN ĐỀ LƯƠNG THỰC
TRONG CHÍNH SÁCH CỦA NHẬT BẢN Ở NAM KÌ (1940 – 1945)
                                                                                                                        Lê Tùng Lâm·
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tháng 9.1940, Nhật Bản chính thức xâm chiếm Việt Nam. Từ đó, nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị của Pháp - Nhật. Sự thống trị tàn bạo của Nhật Bản đã làm cho hơn 2 triệu đồng bào miền Bắc Việt Nam chết đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945. Vậy mục đích của Nhật Bản khi nhảy vào Việt Nam là gì? Chính sách của Nhật Bản đối với Nam Kì như thế nào? Hậu quả của những chính sách đó ra sao?
Nhiều nhà sử học cho rằng “việc buôn bán lương thực của Nhật Bản ở Việt Nam (Đông Dương) - một nguyên nhân chủ yếu đưa tới nạn đói khủng khiếp này”[9, 364]. Không thể phủ nhận nguyên nhân của nạn đói năm 1944 – 1945 ở Việt Nam là xuất phát từ chính sách bóc lột của đế quốc Pháp-Nhật. Đã 65 năm trôi qua, tội ác của Nhật Bản vẫn còn đó. Chúng ta không nên cứ ôm mãi quá khứ nhưng cũng không được phép quên quá khứ đau đớn này. Do đó, việc tìm hiểu, lý giải rõ chính sách của Nhật Bản về vấn đề lương thực ở Nam Kì là điều cần thiết.

II. NỘI DUNG
1. Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương
Năm 1937, Nhật Bản mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Từ năm 1939, Nhật Bản cũng đẩy mạnh quá trình tiến xuống miền Nam châu Á. Tháng 2.1939, Nhật Bản chiếm đảo Hải Nam (Trung Quốc) và chiếm luôn quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam) vào tháng 3.1939. Đây là bước khởi đầu cho quá trình mở rộng xâm lược xuống vùng Đông Nam Á – đầu tiên là Đông Dương vì đây là một khu vực có vị trí rất quan trọng về mặt chiến lược. Nếu chiếm được Đông Dương, Nhật Bản sẽ đạt được hai mục tiêu:
- Thứ nhất: Ngăn chặn sự tiếp viện từ bên ngoài cho Trung Quốc bằng con đường từ Hải Phòng tới Côn Minh và nếu có thể, dùng con đường này để xâm nhập miền Nam Trung Quốc.
- Thứ hai: Nhật Bản có thể loại bỏ tất cả các cường quốc phương Tây ra khỏi thuộc địa của họ ở Đông Nam Á để thiết lập “Khu thịnh vượng chung Đại Đông Á”[1, 225].
Như vậy, việc chiếm được Đông Dương sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc thôn tính toàn bộ Trung Quốc cũng như để thực hiện kế hoạch thiết lập “Khu thịnh vượng chung Đại Đông Á” là một vùng rộng lớn “bao gồm Đông Dương và Indonesia (quần đảo Nam Dương-ND) thuộc Hà Lan” [7, 137] của Nhật Bản.
Để thực hiện kế hoạch này, ngày 1.8.1940, Bộ Tham mưu Hải quân Nhật Bản công bố tài liệu “Nghiên cứu những chính sách đối với Đông Dương” đã nêu lên 3 điều khiến Nhật Bản phải nhanh tay làm chủ Đông Dương:
- Làm căn cứ tiến hành đánh chiếm Miến Điện và Mã Lai.
- Đóng giữ Cam Ranh – cảng quân sự vào loại tốt nhất thế giới, nằm giữa đường đi Singapore đến Hồng Kông và cũng có vị trí như vậy từ Biển Đông đến Bangkok, đến Manila, đến các cảng ở Sarawak và Bắc Borneo.
- Thuận lợi cho việc tập trung quân nhanh chóng chuyển đến mặt trận Thái Bình Dương một khi chiến tranh nổ ra [9, 367-368].
Nhằm đẩy nhanh hơn tiến trình xâm chiếm toàn bộ Đông Nam Á, ngày 2.8.1940 Nhật gởi cho Toàn quyền Đông Dương – Đô đốc Jean Decoux một yêu cầu tối thiểu về việc di chuyển những nhóm người Nhật ở Bắc Đông Dương và tự do về bầu trời hàng không.
Ngày 30.8.1940, Đại diện cho chính phủ Vichy ở Nhật là Arsène Henry và Matsouka – Bộ trưởng Ngoại giao của Nhật đã ký kết Hiệp ước về việc bảo vệ chủ quyền Pháp ở Đông Dương với nội dung:
- Chính phủ Nhật cam kết tôn trọng và nhìn nhận chủ quyền của Pháp trên toàn cõi Đông Dương.
- Chính phủ Pháp chấp nhận cho quân đội Nhật tạm đóng ở Bắc Kỳ để sớm giải quyết vấn đề Trung Quốc.
- Hai bộ tư lệnh Pháp và Nhật họp tại Hà Nội sẽ ký một thỏa ước quân sự ấn định thể thức thi hành thỏa hiệp chính trị [1].
Hiệp ước này đã đánh dấu sự nhượng bộ của thực dân Pháp trước Nhật Bản và cũng mở đầu cho quá trình hợp tác Pháp-Nhật tại Đông Dương. Sở dĩ chính quyền Vichy chấp nhận điều kiện đó của Nhật vì Œ Đông Dương là cửa sổ bên ngoài của chính phủ Tưởng Giới Thạch khi rút về Trùng Khánh, là chiếc chìa khóa chiến lược để đi vào toàn bộ vùng Đông Nam Á […]. Sự riệu rã đột ngột của chế độ thực dân Pháp do sự sụp đổ về quân sự và chính trị vào tháng 6.1940 ở chính quốc [3, 51].
Trong khi đó, ở Đông Dương, Jean Decoux vẫn kiên quyết không chấp nhận những yêu cầu của Nhật Bản với lý do: chưa nhận được chỉ thị từ chính phủ Vichy. Trước sự cứng rắn của Toàn quyền Decoux, đúng 23 giờ ngày 22.9.1940, quân Nhật từ miền Nam Trung Quốc tấn công vào các đồn binh Pháp ở Bắc Kỳ. Quá thất vọng trước sự lưỡng lự của Pháp cho họ tự do đi qua thuộc địa, những chỉ huy địa phương của Nhật đã nhanh chóng xua quân tràn vào hai đồn binh ở Lạng Sơn và Đồng Đăng đánh bại lực lượng hỗn hợp Pháp – Việt trong vài trận đánh ác liệt nhất mà quân Nhật tham gia tại Việt Nam. Sự thất thủ của Đồng Đăng và Lạng Sơn đã cho chính quyền Pháp cả ở thuộc địa và lẫn chính quốc thấy rằng, bất chấp những tuyên bố mạnh miệng, họ vẫn không thể chống lại sức mạnh của quân Nhật. Cộng tác và thỏa hiệp là lựa chọn thực tế duy nhất nếu Pháp muốn duy trì quyền kiểm soát Đông Dương [5, 49]. Sự kiện này được Hồ Chí Minh giải thích như sau: Người Nhật trở thành chủ nhân đích thực. Người Pháp trở thành một dạng nô lệ được tôn trọng. Và người dân Đông Dương phải chịu cảnh một cổ hai tròng – làm nô lệ không chỉ cho người Nhật mà còn là nô lệ của nô lệ”[5, 51].
Như vậy, sau thắng lợi ở Lạng Sơn, Đồng Đăng, phát xít Nhật đã chính thức nhảy vào Đông Dương. Từ đây, nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”  dưới sự thống trị của Pháp - Nhật. Mục tiêu thật sự của Nhật khi nhảy vào Đông Dương là gì?

2. Vấn đề lương thực trong chính sách của Nhật ở Nam Kì  từ 1941 – 1945
Trong quá trình xâm lược xuống Đông Nam Á, nỗi bận tâm lớn nhất của giới cầm quyền Nhật Bản chính là nguồn lương thực để phục vụ cho chiến tranh. Ngay sau khi độc chiếm Việt Nam, Nhật thực hiện triệt để chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, nhằm cướp đoạt đến cùng sức người, sức của, của nhân dân ta trên tất cả các hoạt động kinh tế xã hội” [10, 357] để phục vụ cho các hoạt động quân sự của họ.
Tháng 1.1941, Nhật Bản yêu cầu Toàn quyền Decoux ký thỏa thuận: “xuất 100 tấn gạo từ Sài Gòn sang Nhật và trong 1 năm vận chuyển 1 triệu tấn gạo cho quân đội Nhật, bao gồm số gạo cung cấp cho hàng chục vạn quân Nhật đang đóng ở Đông Dương”[13, 178].
Tháng 7.1941, Hiệp định mới “Hoạch định phòng thủ chung Đông Dương” (Darlan-Kato) được ký kết. Theo đó, Pháp cho Nhật được quyền đóng quân và sử dụng các căn cứ, các hệ thống giao thông tại phía Nam Đông Dương, từ đó, vài tháng sau họ sẽ hành quân chống lại đế quốc Anh [11, 35]. Để thực hiện kế hoạch này, Tư lệnh Trưởng quân đội Nhật Bản – Terauchi kéo quân vào Nam Việt Nam mà không gặp phải kháng cự nào. Đến tháng 11.1941, đã có khoảng 80.000 quân Nhật (trong tổng số 100.000 quân Nhật ở cả Bắc và Nam Kì) ở vùng này [13,179]. Rõ ràng, việc có đến 80% quân đội Nhật ở Việt Nam đóng tại Nam Kì đã nói lên được vai trò quan trọng của khu vực này trong chính sách của Nhật Bản.
Ngay khi vào miền Nam, “quân đội Nhật giành quyền kiểm soát các sân bay và hải cảng, bao gồm khu vực xung quanh vịnh Cam Ranh và các sân bay quanh Sài Gòn. Nhật sử dụng căn cứ Đông Dương để hậu thuẫn cho cuộc tấn công mở rộng Đế chế Mặt Trời mọc xuống Đông Nam Á” [5, 50].
Như vậy, từ năm 1941, Nam Kì trở thành căn cứ xuất phát của quân Nhật đi đánh chiếm xuống vùng Đông Nam Á. Để đảm bảo cho thắng lợi quân sự, Nhật Bản đã đẩy mạnh việc buộc thực dân Pháp phải cung cấp nguồn lương thực cho quân Nhật. Gạo Việt Nam được sử dụng để nuôi quân Nhật và xuất khẩu sang đảo quốc này. Gạo và ngô còn được dùng để chưng cất thành cồn bù vào sự thiếu hụt xăng dầu [5, 53].
Tác giả Futura Motoo cũng cho rằng “tài nguyên quan trọng nhất mà Nhật trông đợi ở Đông Dương là gạo, việc nhập khẩu gạo từ Đông Dương sang nước Nhật trong tổng lượng nhập khẩu năm 1940 là 25,9%, năm 1941 là 25,2%, năm 1942 là 37%, năm 1943 là 56,3% và chiếm tỉ lệ cao nhất trong thời kì có thể vận chuyển bằng tàu biển […]. Gạo Đông Dương được cấp thêm cả cho quân đội Nhật triển khai ở khu vực thiếu lương thực” [6, 117]. Do đó, nguồn lương thực của Việt Nam là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc xâm lược cũng như sự tồn tại của Nhật Bản.
Ngày 9.12.1941, Pháp – Nhật đã ký kết “Hiệp ước phòng thủ chung”, thừa nhận sự chiếm đóng của Nhật trên toàn Đông Dương” […]. Riêng về gạo, Pháp phải nộp cho Nhật năm 1941 là 585.000 tấn, năm 1942 là 973.000 tấn, năm 1943 là 1.023.000 tấn, năm 1944 là 900.000 tấn [13, 177]. Những chính sách này của Nhật đã được cụ thể thành các hiệp định sau:
- Hiệp định ngày 18.7.1942 (được ký kết tại Sài Gòn): Theo đó, “chính phủ Liên bang Đông Dương cam kết giao cho chính phủ Nhật Bản 1.050.000 tấn gạo và tấm trước ngày 31.10.1942 và 45.000 tấn bột gạo trắng vào trước ngày 31.12.1942. […] nhưng không bao gồm số dư nợ của đợt giao 30.000 tấn dự kiến vào tháng 12.1941, được mang sang tháng 1.1942 lên tới khoảng 24.000 tấn. Như vậy, số gạo xuất cho Nhật trong năm 1942 sẽ là 1.074.000 tấn” [15, 585].
          -  Hiệp định ngày 25.1.1943 với nội dung: “chính phủ Đông Dương cam kết giao nộp cho chính phủ Nhật Bản 1.050.000 tấn gạo và tấm cùng 66.000 tấn bột gạo trắng trước ngày 31.12. Số kết toán của hạn mức gạo, tấm phải nộp năm 1942 chưa nộp tính đến 31.12.1942 lên đến 75.904 tấn phải được giao nộp vào năm 1943, không nằm trong hạn mức 1.050.000 tấn”. Như vậy, khối lượng toàn bộ số gạo và tấm phải xuất lên đến 1.125.904 tấn [15, 586].
          -  Hiệp định ngày 5.1.1944 (được ký tại Sài Gòn) bao gồm các điều khoản chủ yếu: “chính phủ Đông Dương cam kết giao nộp cho chính phủ Nhật 900.000 tấn gạo và tấm. Tuy nhiên, chính phủ Đông Dương cam kết sẽ giao tối thiểu một khối lượng gạo 585.000 tấn gồm các loại 1-2-3 (tức loại 25%, 40% và 50% tấm) và một khối lượng tối đa gồm: 135.000 tấn gạo trắng có chất lượng bằng hay hơn loại gạo tròn và dài 20% tấm; 135.000 tấn gạo cargo (gạo không đóng bao); 45.000 tấn tấm” [15, 587].
Như vậy, lương thực của Đông Dương chiếm giữ một vai trò rất quan trọng trong chính sách xâm lược, mở rộng lãnh thổ của Nhật Bản. Gạo của Việt Nam không chỉ cung cấp cho quân đội mà còn cung cấp cho cả nước Nhật. Tuy nhiên, đây là số lượng gạo quá lớn so với sức cung cấp của Đông Dương. Do đó, thường thực dân Pháp không cung cấp đủ số lượng cho Nhật. Theo Đào Phiếu, số lượng gạo Việt Nam cung cấp cho Nhật như sau:
Năm
Tổng số yêu cầu (tấn)
Tổng số xuất cảng cho Nhật (tấn)
1940
Không rõ
408.000 tấn
1941
700. 000 tấn
585. 000 tấn
1942
1.074. 000 tấn
973. 000 tấn
1943
1.125. 000 tấn
1.023.471 tấn
1944
900. 000 tấn
498.525 tấn
1945
Không rõ
44.807 tấn
Nguồn: [10, 359].
Theo bảng số liệu trên, năm 1941, số lượng gạo Việt Nam cung cấp cho Nhật đạt 83,6%; năm 1942 đạt 90,6%; năm 1943 đạt 90,9%; năm 1944 đạt 55,4%. Rõ ràng, số lượng gạo Việt Nam cung cấp cho Nhật nhiều nhất là hai năm 1942, 1943. Sang năm 1944, tình hình mặt trận Thái Bình Dương có nhiều thay đổi, con đường vận chuyển trên biển của Nhật bị cắt đứt. Do đó, số lượng gạo xuất sang Nhật bị giảm sút đáng kể.
Cùng với gạo, ngô là nguồn lương thực quan trọng cũng bắt buộc phải xuất khẩu sang Nhật Bản:
Năm 1941, xuất cảng 124.923 tấn
Năm 1942, xuất cảng 98.700 tấn (chiếm 46% tổng sản lượng của Việt Nam)
Năm 1944, xuất cảng 18.263 tấn (chiếm 45% tổng sản lượng của Việt Nam)
Năm 1945, xuất cảng 12.134 tấn (chiếm 9% tổng sản lượng của Việt Nam)[10, 360]. Vậy là, gạo đã bị đem đi xuất khẩu, nhân dân Việt Nam ăn không đủ no, nay lại phải xuất khẩu ngô. Do đó, đời sống nhân ngày càng thêm cơ cực.
Bên cạnh gạo, ngô, Nhật Bản còn tăng cường vơ vét các loại ngũ cốc. Đông Dương cũng là nơi cung cấp ngũ cốc chính cho Nhật. Trong những năm 1940 – 1945, Đông Dương xuất khẩu sang Nhật một lượng ngũ cốc (ngoài gạo) như sau:
- Năm 1940: 149.000 tấn (chiếm 55,4% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1941: 135.000 tấn (chiếm 50,6% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1942: 125.000 tấn (chiếm 15,2% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1943: 634.000 tấn (chiếm 84,5% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1944: 335.000 tấn (chiếm 70,0% số ngũ cốc nhập vào Nhật)[9, 379].
Rõ ràng, Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng là nguồn cung cấp lương thực quan trọng nhất cho Nhật Bản. Số lượng gạo của Việt Nam nhập vào Nhật Bản chiếm đến 56,3% và 84,5%  số lượng ngũ cốc nhập vào Nhật năm 1943 là minh chứng rõ ràng nhất về vị trí của Việt Nam trong việc cung cấp lương thực cho Nhật. Do đó, việc Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương không phải chủ yếu từ mục tiêu chính trị là ngăn chặn tiếp tế từ bên ngoài cho Trung Quốc mà là do nguồn cung cấp lương thực của Đông Dương cho Nhật trong cuộc tồn tại và xâm lược của họ. Những hiệp định đã được ký kết giữa Nhật với Pháp cùng những số liệu về việc cung cấp lương thực cho Nhật đã chứng minh mục tiêu của Nhật khi xâm chiếm Đông Dương. Vậy hậu quả của chính sách lương thực của Nhật như thế nào?

3. Hậu quả chính sách lương thực của Nhật Bản
Việc Nhật buộc chính phủ Pháp ở Đông Dương cung cấp lương thực với một số lượng lớn như trên đã gây ra những hậu quả vô cùng to lớn đối với nhân dân Việt Nam.
Thứ nhất: Pháp cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc cung cấp cho Nhật. Báo cáo Mật của Sở Mễ cốc ngày 22.4.1942 đã nêu: “(…) Theo quy định, từ nay đến ngày 31.5, Sở Mễ cốc phải nộp cho hãng Mitsui Bussan Kaisha trung bình mỗi tháng 120.000 tấn gạo. Thế nhưng hiện nay Sở Mễ cốc chỉ có thể cung ứng 100.000 tấn gạo và tấm mà thôi. (…)”[13, 153].
Hoặc Báo cáo của Sở Mễ cốc ngày 4.5.1942 “ (…), như vậy tổng cộng từ tháng 1 đến tháng 5.1942 (Pháp phải nộp cho Nhật-ND) là 490.000 tấn. Tính đến nay, Sở Mễ cốc đã nộp cho hãng này (Mitsui Bussan Kaisha) 379.000 tấn. Như vậy, trong tháng 5 còn phải nộp tiếp cho Nhật 109.724 tấn gạo và tấm” [13, 164]. Rõ ràng, thực dân Pháp không có đủ lượng gạo cần thiết để cung cấp cho Nhật. Tuy nhiên, vì mục tiêu chính trị nên Sở Mễ cốc phải ra sức thu mua lúa trong nhân dân để đảm bảo cung cấp cho Nhật. Báo cáo của Chủ tỉnh Gò Công ngày 9.5.1942 đã nêu “(…) Tôi đã ra lệnh cho các chủ vựa khác phải bán gấp số lúa của họ trong thời gian ngắn nhất. Các chánh tổng cũng đã được lệnh phải đích thân đến các vựa lúa để kiểm tra và đốc thúc các chủ vựa bán ngay số lúa đã được quy định” [13, 155].
Hoặc Báo cáo của chủ tỉnh Rạch Giá ngày 14.5.1942 viết: “(…) Sau cuộc họp từ ngày 5-5 ở Sài Gòn trở về, tôi đã ra lệnh khẩn cấp cho các tổng, xã trong tỉnh buộc các điền chủ phải bán lúa của họ cho nhà nước với khối lượng lớn và trong một thời hạn khẩn cấp”[13, 156].
Như vậy, thực dân Pháp đã dùng mọi biện pháp để bắt nhân dân ta bán lúa, gạo cho họ để đủ cung cấp theo yêu cầu của Nhật. Thậm chí, để thắt chặt thị trường lúa gạo, Toàn quyền Đông Dương còn ban hành các Nghị định ngày 12.3.1942 và 31.3.1943 quy định: “những người có hai tấn lúa và 1 tấn gạo trở lên đều phải khai báo và bán lại cho chính quyền thông qua Thương cục Gạo và Bắp” [12,192]
Nghị định của Thống đốc Nam Kì ký ngày 17.4.1943 quy định rõ “ai có 4 tạ thóc hay 2 tạ gạo đều phải khai báo và bán cho nhà nước thấp hơn giá thị trường 1 đồng/tạ” [10, 361]
Ngày 17.4.1944, thay mặt Thống đốc Nam Kì, Thanh tra Vụ Chính trị và hành chính Dufour ký “Nghị định khẩn” gồm 7 điều. Theo đó quy định:
Điều 1:  Trên toàn lãnh thổ Nam Kỳ (ngoại trừ vùng Sài Gòn – Chợ Lớn) yêu cầu tất cả những người hiện đang chứa trữ lúa gạo và tấm (gồm điền chủ, nông gia, chủ ghe bầu, người vận chuyển, người bán lúa, chủ nhà máy xay, người xuất khẩu) phải khai báo trong ngày 5.5.1944, hạn chót trước 16 giờ. […][13, 161-162].
Có thể nói, chính quyền Đông Dương đã thực hiện mọi biện pháp khắc nghiệt để tận thu lúa gạo trong nhân dân, thương buôn, điền chủ…Tuy nhiên, Pháp vẫn không thỏa mãn được yêu cầu của Nhật. Thông tri ngày 21.9.1942, Thống đốc Nam Kỳ Rivoal viết: “Trên thực tế, con số dự kiến 800.000 tấn nộp cho Nhật đã là một dự kiến sai lầm. Thế mà phía người Nhật vẫn cho rằng chúng ta thiếu thiện chí và thành thật, và họ đã tăng lên 1.050.000 tấn, ép buộc chúng ta phải chấp thuận”… [13, 158].
Bên cạnh những biện pháp ép buộc các nhà nông, điền chủ, chủ vựa lúa gạo…phải khai báo và bán theo quy định của nhà nước, thực dân Pháp còn quy định giá mua thấp hơn rất nhiều so với giá cả thị trường. “Năm 1943, giá gạo chính thức do chính quyền thuộc địa ấn định có 26 đồng/tạ (100kg), trong khi giá thị trường lên đến 57 đồng. Rồi tới năm 1944, giá chính thức thu mua vẫn không tăng nhưng giá thị trường lên đến 350 đồng – 400 đồng/tạ…” [14, 402].
Như vậy, chính sách vơ vét, bóc lột lương thực của Nhật đã gây nhiều khó khăn cho thực dân Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, xét cho cùng, chính nhân dân Việt Nam là đối tượng gánh chịu tất cả những khó khăn đó.
Thứ hai: chính sách trên của Nhật đã tạo nên cơn sốt giá cả trầm trọng ở Việt Nam vào những năm 1944-1945. Trong suốt thời gian bị quân Nhật chiếm đóng, giá cả một số sản phẩm cần thiết tăng lên kinh khủng, làm phát sinh nạn chợ đen, khiến cho những người có thu nhập thấp không thể nào với tới hàng hoá.
Cho đến giữa tháng 5.1942, khắp các tỉnh Nam Kì giá thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác tăng trung bình từ 10% đến 30%, có lúc lên đến 70%. Theo báo cáo của chủ tỉnh Sa Đéc (tháng 5.1942), giá thực phẩm của tỉnh so với cùng kì năm 1941 tăng ít nhất 11% và cao nhất là 77% như: Cá khô tăng 11%; Các loại rau tăng 35%; Hàng tiêu dùng tăng 47%; Gà vịt tăng 77%... Trong khi đó, giá cả ở Long Xuyên cùng kì (5.1942) cũng tăng lên đáng kể như: gạo tăng 20%; rau tăng 30%; nước đá tăng 60%..[13, 253-254].
Sự gia tăng nhanh chóng giá cả các mặt hàng thực phẩm thiết yếu đã tác động rất lớn đến đời sống của nhân dân ta. Tình hình này ngày càng tội tệ hơn vào vụ mùa năm 1944 – 1945. Trong giai đoạn này, từ Nam đến Bắc Việt Nam, hầu như gia đình nào cũng bị đói. Chi phí sinh hoạt tại Sài Gòn tăng lên 450%, tại Hà Nội, chi phí sinh hoạt tăng lên đến 2000% [4, 135].
Trong khi đó, chính quyền Pháp còn tung ra lượng tiền giấy ngày càng nhiều để làm đòn bẩy trong quan hệ làm ăn với Nhật, vừa trả chi phí để duy trì quân đội Nhật tại Đông Dương, vừa trả lương cho công chức và binh lính. Kết quả, lượng tiền lưu thông tăng từ 180 triệu đồng vào năm 1939 lên đến 1tỷ 364 triệu đồng vào năm 1944 [14, 402-403]. Tình hình này làm cho nạn lạm phát tăng cao và làm cho đời sống nhân dân ngày càng cơ cực nhiều hơn.
Thứ ba: chính sách thu mua lương thực cưỡng bức với giá rẽ mạt, bắt nhân dân nhổ lúa, trồng đay phục vụ chiến tranh…là nguyên nhân gây nên nạn đói năm 1945 ở Việt Nam.
Toàn bộ số gạo mà Nhật mua của Việt Nam với giá quy định thấp hơn thị trường rất nhiều. “Tháng 7.1945, giá chính thức thu mua do Nhật ấn định là 55 đồng/tạ, thì giá thị trường là 700 – 800 đồng/tạ” [14, 402]. Như vậy, giá lúa Nhật thu mua chưa bằng 1/12 giá thị trường. Trong khi đó, nhân dân nghèo muốn có “cơm ăn” phải mua lại với giá đắt gấp 12 lần.
Trong khi đó, than đá từ miền Bắc không chở vào Nam được để cho các nhà máy hoạt động. Do đó, gạo, ngô đã được dùng đốt thay cho than đá. Ngược lại, gạo của Nam Kì cũng không thể chở ra Bắc Kì được. Số lượng gạo chuyển từ Nam ra Bắc đã bị giảm sút nghiêm trọng. Năm 1941 là 185.620 tấn; năm 1942 là 126.670 tấn; năm 1943 là 29.200 tấn; năm 1944 là 6.830 tấn [10, 357]. Rõ ràng, số lượng gạo vận chuyển ra miền Bắc trong năm 1944 chỉ bằng 3% so với năm 1941. Hệ quả tất yếu là trong những tháng đầu năm 1945, hàng trăm ngàn người lang thang, ăn xin và chết đói khắp các vùng quê miền Bắc và Miền Trung Việt Nam.
Mặt khác, để giải quyết tình hình khó khăn về nguồn nhiên liệu phục vụ cho sinh hoạt và chiến tranh, chính phủ Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu. Ngày 22.1.1945, Thống đốc Nam Kì gởi các chủ tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc một công văn mật:
[…] Phái bộ Nhật yêu cầu Phủ Toàn quyền cho phép hãng Memka KK và hãng Mitsui Bussan Kaisha được lĩnh thầu việc trồng đay ở miền Nam Đông Dương. Riêng Nam Kì, người Nhật yêu cầu 1.400ha diện tích trồng đay phân cho:
- Tokyo Menka KK: 700 ha ở Châu Đốc
- Mitsui Bussan Kaisha:      300 ha ở Long Xuyên ; 300 ha ở Sa Đéc
                                                100 ha ở Cần Thơ [13, 199]
Nếu tính trung bình mỗi hecta thu hoạch 1,3 tấn thóc thì Nam Kì đã mất đi hết: 1400 x 1,3 tấn = 1.820 tấn thóc. Nếu trung bình mỗi người tiêu thụ tối thiểu 120kg thì phải có hơn 15.000 người không có gì ăn.
Ngoài ra, Nhật còn lấy đất ruộng để trồng cây có dầu, lấy dầu trộn với dầu cá, dầu dừa, dầu đậu phọng để làm dầu máy. Tính đến cuối năm 1944, diện tích đất bị Nhật chiếm để trồng đay, thầu dầu là 131.700 hecta [14, 400]. Như vậy, cuối năm 1944, số thóc bị mất trắng khoảng: 131.700 x 1,3 tấn = 171.210 tấn, tương đương gần 1,5 triệu người không có gì ăn.
Tóm lại, chính sách cưỡng bức thu mua lương thực với giá rẻ mạt của Nhật Bản cùng với tình trạng lạm phát tăng cao, giá cả thị trường đặt đỏ, nhân dân mất đất trồng cây công nghiệp phục vụ chiến tranh…đã gây nên nạn đói trầm trọng cho nhân dân Việt Nam cuối năm 1944 – đầu năm 1945.

KẾT LUẬN
Tháng 9.1940, Nhật Bản chính thức xâm chiếm Việt Nam. Nhìn bên ngoài, Nhật chiếm Đông Dương vì đây là khu vực có vị trí chiến lược để Nhật xâm nhập vào Trung Quốc từ phía Nam và là căn cứ để quân Nhật xuất phát đi đánh chiếm xuống vùng Đông Nam Á. Nhưng thực chất, Nhật Bản quan tâm nhiều hơn chính là nguồn lương thực của Việt Nam. Từ năm 1940- 1945, Nhật Bản ra sức ép thực dân Pháp phải cung cấp cho họ một số lượng khổng lồ về gạo, ngũ cốc (đỉnh cao là năm 1943) để cung cấp cho chính quốc lẫn quân đội để xâm chiếm xuống vùng Đông Nam Á, thiết lập khu Thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Mặt khác, Nhật còn buộc nhân dân ta phải nhổ lúa trồng đay, thầu dầu để phục vụ cho chiến tranh. Hậu quả, Pháp ra sức vơ vét, bóc lột tàn nhẫn nhân dân ta để đủ lương thực cung cấp cho Nhật. Nhân dân đã đói khổ lại phải mất đất để trồng cây công nghiệp, giá cả sinh hoạt đắt đỏ, lạm phát tăng cao… Do đó, đời sống nhân dân ta vô cùng cơ cực. Hậu quả nặng nề là hơn 2 triệu đồng bào miền Bắc bị chết đói cuối năm 1944 đầu năm 1945. Do đó, có thể kết luận là “vấn đề lương thực của Nhật Bản ở Nam Kì là một trong những nguyên nhân để Nhật nhảy vào Việt Nam và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nhân dân Việt Nam”.

TÓM TẮT
Tháng 9.1940, Nhật Bản chính thức xâm chiếm và thống trị Việt Nam. Mục tiêu quan trọng của họ khi chiếm Việt Nam vì Việt Nam là “cửa ngỏ xâm chiếm Trung Quốc từ phía Nam và là nơi cung cấp lương thực (gạo, ngũ cốc, cây công nghiệp) cho chính quốc lẫn đội quân xâm lược của họ”. Do đó, từ 1940 – 1945, Nhật ép buộc Pháp cung cấp số lượng lớn lương thực và ra sức bóc lột tàn nhẫn nhân dân Việt Nam. Đối với Nam Kì, Nhật Bản vừa vơ vét lúa gạo, thu mua với giá rẻ mạt, bắt nhân dân Nam Kì trồng cây công nghiệp phục vụ chiến tranh…làm cho đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, đói khổ. Mặt khác, lúa gạo Nam Kì không vận chuyển ra Bắc được đã gây ra nạn đói trầm trọng cho nhân dân Việt Nam năm 1945.

ABSTRACT
In September 1940, jump on the official Japanese invaded and ruled Vietnam. The important goal of accounting for them when Vietnam is the "gateway invaded China from the South and is a major supplier of food (rice, cereals, industrial crops) for the country and their army of invaders". Thus, from 1940 - 1945, Japan forced the French to provide large quantities of food and strive ruthlessly exploited the people of Vietnam. For the Southern Vietnam, Japan has rice plunder, and buying the cheap price, by the people of South Vietnam growing industrial war service ... make people's life extremely hard, hungry. On the other hand, Rice Southern Vietnam were not transported to the North has caused severe famine for the people of Vietnam in 1945.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Anh (1974), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Bộ VHGD và Thanh Niên, Sài Gòn.
2. Lý Hiệp Bình, Việt Nam dưới thời kì quân đội Nhật chiếm đóng, Tia Sáng Nhật báo, ngày 13.9.1968.
3. Daniel Hémery (2005), Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam, Lê Toan biên dịch, NXB Phụ Nữ.
4. David C. Marr (1980), “World War II and the Vietnamese Revolution” in Southeast Asia under Japanese Occupation, Alfred W. McCoy [Ed], New Haven
5. Dixee R. Bartholomew-Feis (2008), OSS và Hồ Chí Minh, Đồng minh bất ngờ trong cuộc  chiến chống phát xít Nhật, Lương Lê Giang dịch, NXB Thế Giới- Công ty Văn hóa và Truyền thông Võ Thị.
6. Futura Motoo (1998), Việt Nam trong lịch sử thế giới¸ Nguyễn Văn Nguyệt dịch, NXB CTQG, HN.
7. Lê Đình Hà (2006), Cuộc đời Nhật Hoàng Hiro Hito, NXB Thanh Niên.
8. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 – 1945), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
9. Phan Ngọc Liên(2001), “Chiến lược cung cấp lương thực” của Nhật trong thời kì chiếm đóng Việt Nam – Một trong những nguyên nhân gây ra nạn đói 1944 – 1945 trong Chứng tích Pháp – Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1858 – 1945, NXB Trẻ.
10. Đào Phiếu (2001), Chứng tích chiến tranh xâm lược của phát xít Nhật ở Việt Nam trong Chứng tích Pháp – Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1858 – 1945, NXB Trẻ.
11. Philipe Devillers (2003), Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Hoàng Hữu Đảm dịch, NXB Tổng hợp TP HCM.
12. Nguyễn Phan Quang (2004), Thị trường lúa gạo Nam Kỳ (1860 - 1945), NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Phan Quang (1998), Góp thêm tư liệu Sài Gòn – Gia Định từ 1859 – 1945, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
14. BS. Ngô Văn Quỹ (2001), Sinh mệnh hai triệu nông dân Bắc Kì và nạn đói 1945 – Kết quả sự đầu hàng nhục nhã của Pháp trong Chứng tích Pháp – Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1858 – 1945, NXB Trẻ.
15. Văn Tạo - Furuta Motoo (1995), Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam:những chứng tích lịch sử, Viện sử học Việt Nam xuất bản, Hà Nội.


ThS Lê Tùng Lâm
Khoa SPKHXH Trường Đại học Sài Gòn
ĐT: 0909461964
Mail: letunglam.dhsg@yahoo.com.vn
 
 


· Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội – Trường Đại học Sài Gòn.
[1] Lý Hiệp Bình, Việt Nam dưới thời kì quân đội Nhật chiếm đóng, Tia Sáng Nhật báo, ngày 13.9.1968.