CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI NGHỊ Ở QUỐC(1948 – 1958)
Th.S Lê Tùng Lâm - Khoa SP. Khoa học Xã hội, Trường Đại học Sài Gòn
Tháng 11 năm 1943, Hội nghị Cairo đã được
tổ chức với sự tham gia của Tổng thống Mĩ F. Roosevelt, Thủ tướng Anh W.
Churchill và Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai Shek), các bên đã thông qua tuyên bố
Cairo. Theo đó, “vào một lúc thích hợp, Triều Tiên sẽ trở nên tự do và độc
lập”[1,251]. Tuy nhiên, ý tưởng này đã nhanh chóng được thay thế bằng một kế
hoạch mới: “thiết lập chế độ Ủy trị quốc tế đối với Triều Tiên”.
Ngày 8 tháng 8 năm 1945, sau khi tuyên
chiến với Nhật, Hồng quân Liên Xô đã nhanh chóng tiến vào lãnh thổ Triều Tiên
từ phía Bắc xuống. Hồng quân Liên Xô đã nhanh chóng đánh bại các thế lực phát
xít Nhật ở Bắc Triều Tiên mà không vấp phải một sự kháng cự nào đáng kể. Đây là
điều mà Mĩ không lường trước được. Sự suy yếu và tan rã nhanh chóng của quân
đội Nhật đã tạo cơ hội thuận lợi cho Liên Xô chiếm đóng toàn bộ bán đảo Triều
Tiên trước khi quân đội Mĩ đến. Do đó, Mĩ đã đề nghị Liên Xô phân chia Triều
Tiên thành hai vùng hoạt động quân sự dọc theo vĩ tuyến 38: Miền Bắc (77.539 km2)
là vùng thuộc Liên Xô kiểm soát, miền Nam (59.589,3km2) là
vùng thuộc Mĩ kiểm soát. Stalin đã đồng ý với đề nghị này và ra lệnh cho quân
đội của mình dừng chân ở vĩ tuyến 38.
Ngày 6 tháng 9 năm 1945, 72.000 quân đội Mĩ
dưới sự chỉ huy của Trung tướng J. R.
Hodge đã đến Nam Triều Tiên. Khi vào Seoul, nhà cầm quyền Mĩ đã chấp nhận sự
đầu hàng của Nhật Bản, giải giới quân đội Nhật và bắt tất cả kiều dân Nhật sống tại Triều Tiên hồi hương [1, 255]. Đồng thời, người Mĩ
đã không thừa nhận tính hợp pháp của chính phủ Cộng hòa nhân dân Triều Tiên. Họ
đã thiết lập Chính phủ quân quản của quân đội Mĩ ở Triều Tiên (USAMGIK) và đặt
Nam Triều Tiên dưới sự cai trị quân sự. Tuy nhiên, những việc làm này của Mĩ đã
làm cho người dân Triều Tiên thất vọng cai đắng và tỏ ra căm thù với sự cai trị
quân sự của Mĩ. Để xoa dịu dư luận cũng như những phản đối của nhân dân Triều
Tiên, Mĩ đã thành lập Hội đồng tư vấn Triều Tiên (10.1945) do Tiến sĩ Rhee
Sungman đứng đầu. Mong muốn của Mĩ là tìm một giải pháp hòa hợp trong vấn đền
Triều Tiên. Người Mĩ muốn Triều Tiên được thống nhất dưới sự lãnh đạo của những
người thân Mĩ.
Tháng 12 năm 1945, tại hội nghị Moscow, các
bộ trưởng các nước Anh, Mĩ, Liên Xô đã chấp nhận kế hoạch đặt Triều Tiên dưới
sự Ủy trị quốc tế của tứ cường là Liên Xô, Mĩ, Anh và Trung Quốc. Kế hoạch này
đã bị nhân dân Triều Tiên phản kháng kịch liệt [47,545]. Phong trào đấu tranh
của nhân dân diễn ra sôi nổi, các cửa hiệu, công ty đóng cửa, các cuộc biểu
tình, tuần hành trên đường phố ngày càng nhiều. Tình trạng này làm cho quá
trình thống nhất Triều Tiên gặp trở ngại nghiêm trọng. Trong tình thế đó, Tướng
Hodge đã thực hiện chính sách Hàn hóa nền cai trị quân sự của Mĩ. Để chuẩn bị
cho người Triều Tiên đảm nhận an ninh quốc gia của chính mình, tháng 1 năm
1946, Chính phủ quân quản Mĩ thành lập sở cảnh sát gồm 25.000 người và đội biên
phòng 2.500 người, huấn luyện quân sự cho họ với các thiết bị tịch thu của
người Nhật. Sau đó, Ngày 14 tháng 2 năm1946, Hội đồng đại diện cho nền dân chủ
Triều Tiên được thành lập do Rhee Sungman đứng đầu. Đây là cơ quan tư vấn và
chấp hành mệnh lệnh của tư lệnh quân đội chiếm đóng Mĩ – tướng Hodge. Tuy
nhiên, quá trình đàm phán giữa Mĩ và Liên Xô về vấn đề Ủy trị quốc tế cho Triều
Tiên đang gặp khó khăn và có nguy cơ phá sản do bất đồng quan điểm giữa hai
cường quốc Xô – Mĩ.
Tháng 11 năm 1946, người Mĩ thành lập Nghị
viện lập pháp quá độ Nam Triều Tiên (SKILA) với 90 thành viên, trong đó Mĩ bổ
nhiệm 45 thành viên, 45 thành viên còn lại được bầu ra qua những cuộc bầu cử
gián tiếp [83, 43]. Như vậy, Nghị viện lập pháp này do người Mĩ lập ra và nắm
quyền chi phối nó với 50% đại biểu. Do đó, số phận của Viện lập pháp tùy thuộc
vào thái độ của Mĩ.
Tháng 5 năm 1947 người đứng đầu bộ máy
chính quyền phong tỏa Mĩ công bố sắc lệnh 141 về việc thay đổi tên Viện lập pháp và bộ máy hành chính dân sự thành
Chính phủ quá độ Nam Triều Tiên (SKIG) gồm cơ quan lập pháp, Tòa án, bộ máy
cảnh sát và bộ máy hành chính [83,44]. Tuy nhiên, cả hai cơ quan Nghị viện lập
pháp quá độ (SKILA) lẫn chính phủ quá độ Nam Triều Tiên (SKIG) đều không có
thực quyền. SKILA không có quyền lập pháp độc lập đúng nghĩa, SKIG không được
giao quyền ra quyết định. Mọi quyền hành do Đốc quân sự Mĩ và Tướng Hodge nắm
giữ và chi phối hai tổ chức này. Rõ ràng, Mĩ đã từng bước xây dựng bộ máy chính
quyền thân Mĩ tại Nam Triều Tiên.
Như vậy, đến nửa đầu năm 1947, hàng loạt sự
kiện đã diễn ra như: sự ra đời Ủy ban nhân dân Bắc Triều Tiên (2.1947) do Kim
Il Sung làm chủ tịch; Tổng thống Mĩ Truman đã công bố “ chủ thuyết Truman ” (3. 1947) chính thức phát động cuộc
chiến tranh lạnh; Chính phủ quá độ Nam Triều Tiên được thành lập (5.1947) do
Rhee Sung man đứng đầu… đã làm phá sản
hoàn toàn kế hoạch đặt Triều Tiên dưới chế độ ủy trị quốc tế. Thay vào đó, xuất
hiện xu hướng thành lập hai nhà nước riêng biệt ở hai miền Nam – Bắc.
Trước tình thế mới này, tháng 9 năm 1947,
Mĩ tuyên bố sẽ đưa vấn đề Triều Tiên lên Liên Hiệp Quốc xem xét. Tuy nhiên,
quyết định này vấp phải sự phản đối của Liên Xô và các nước đồng minh. Liên Xô
đã tuyên bố “tẩy chay Liên Hiệp Quốc” vì Liên Xô cho rằng “ Liên Hiệp Quốc
không có thẩm quyền giải quyết các vấn đề do chiến tranh để lại” và “ Liên Xô
yêu cầu phải mời đại diện của hai miền Nam Bắc Triều Tiên (chưa phải là các
chính phủ có chủ quyền, không phải là hội viên của Liên Hiệp Quốc) tham gia vào
cuộc họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về vấn đề Triều Tiên [33, 47]. Nhưng tất
cả các đề nghị này của Liên Xô đã bị bác bỏ. Do đó, Liên Xô và các nước đồng
minh của mình quyết định không tham gia
thảo luận và biểu quyết về vấn đề Triều Tiên tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Bất chấp sự phản đối của Liên Xô và các nước cùng phe, ngày 10 tháng 10
năm1947, Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã họp để bàn về vấn đề Triều Tiên. Tại
đây, Mĩ và các nước đồng minh đã thông qua nghị quyết về vấn đề Triều Tiên (với
43 phiếu thuận, 6 trắng, 0 chống) với nội dung:
- Tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước trước
ngày 31 tháng 3 năm 1948 để bầu Quốc hội và lập chính phủ chung của cả nước
Triều Tiên.
- Thành lập “Ủy ban lâm thời của Liên hiệp
Quốc về Triều Tiên” (The United Nations Temporary Commission on Korea-
UNTCOK) với sự tham gia của 9 nước là
Australia, Canada, Trung Quốc (Đài Loan của Tưởng Giới Thạch), Pháp, Ấn Độ,
Philippines, El Salvador, Syria và Ukraina (riêng Ukraina từ chối tham gia Ủy
ban). Ủy ban này có nhiệm vụ xúc tiến và
kiểm soát việc tổng tuyển cử và việc thành lập chính phủ cho cả nước Triều
Tiên trên cơ sở hiến pháp dân chủ, thúc
đẩy việc rút quân đội chiếm đóng nước ngoài ra khỏi Triều Tiên.
- Quân đội Mĩ và Liên Xô còn được trú đóng
tại Triều Tiên 90 ngày kể từ khi Chính phủ Triều Tiên được thành lập với lực
lượng cảnh sát có đủ khả năng giữ gìn trật tự trị an [35,44].
Như vậy, Mĩ đang ngày càng can thiệp sâu
hơn vào Triều Tiên. Ý tưởng tiến hành cuộc tổng tuyển cử trong cả nước Triều
Tiên mà không có sự tham gia của Liên Xô đã tạo điều kiện cho việc thành lập
chính phủ thân Mĩ tại Triều Tiên được thuận lợi hơn. Do đó, tháng 11 năm 1947
Ủy ban lâm thời Liên Hiệp Quốc về Triều Tiên (UNTCOK) được chính thức thành lập
và bắt đầu hoạt động. Tuy nhiên, Liên Xô không công nhận tổ chức này và không
cho nó hoạt động ở miền Bắc. Ủy ban này đành phải giới hạn hoạt động trong phạm
vi miền Nam
mà thôi. Đối phó với tình thế khó xử này, sau khi tham khảo ý kiến Ủy ban thứ
nhất của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, UNTCOK quyết định tổ chức tổng tuyển cử ở
miền Nam – nơi 2/3 dân số Triều Tiên cứ trú. UNTCOK xem tổng tuyển cử là hợp
pháp khi cho phép 2/3 dân số Triều Tiên quyết định tương lai chính trị của mình
và thành lập một chính phủ cho cả Triều Tiên. Do đó, Tướng Hodge đã thông báo
ngày 1 tháng 3 năm 1948, các cuộc bầu cử chuẩn bị được tiến hành cho cuộc tổng
tuyển cử ở Nam Triều Tiên (nơi có 21,3 triệu dân) vào ngày 10 tháng 5 năm 1948
dưới sự bảo trợ và giám sát của Liên Hiệp Quốc.
Bất chấp sự chống đối của những người cộng
sản Triều Tiên, đến ngày 9 tháng 4 – ngày cuối cùng đăng ký cử tri, đã có 7,8
triệu cử tri có đủ điều kiện đi bầu (chiếm 79,9% dân số trên 21 tuổi) đã đăng
ký và có 842 ứng cử viên (kể cả 17 phụ nữ) ứng cử vào Quốc hội [1,271]. Ngày 10
tháng 5 năm 1948, UNTCOK chính thức tổ chức cuộc tổng tuyển bầu Quốc hội Triều
Tiên ở miền Nam với sự tham gia của 7,7 triệu cử tri, chiếm 95% cử tri đăng ký.
Kết quả bầu ra được 198 đại biểu Quốc hội cho miền Nam, 100 ghế đại biểu còn bỏ
trống cho đại biểu nhân dân miền Bắc và 2 ghế cho đại biểu nhân dân tỉnh Tế
Châu – nơi đang diễn ra cuộc xung đột do cộng sản gây ra. Quốc hội đầu tiên
được bầu ra gồm 198 đại biểu, trong đó có 84 địa chủ, 32 nhà tư sản, 23 quan
lại và 59 người lãnh đạo các tổ chức cực đoan khác [83,45]. Theo kết quả bầu cử
này, có đến 107/198 đại biểu Quốc hội là địa chủ, quan lại – những người thuộc
hệ tư tưởng phong kiến.
Ngày 31 tháng 5 năm 1948, Quốc hội họp
phiên đầu tiên, bầu tiến sĩ Rhee Sungman làm chủ tịch Quốc hội. Đảng cánh hữu
của Rhee Sungman giành được đa số ghế và đứng ra thành lập chính phủ. Ngày 17
tháng 7, Hiến pháp được thông qua. Quốc hội quyết định đặt tên nước là: Đại Hàn
Dân Quốc ( ROK – Republic
of Korea), thiết lập thể
chế dân chủ và bầu Rhee Sungman làm Tổng thống đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc
(Hàn Quốc). Ngày 20 tháng 7, Rhee Sungman chính thức trở thành tổng thống đầu
tiên của Hàn Quốc.
Ngày 15 tháng 8 năm 1948, nước Đại Hàn Dân
Quốc chính thức được thành lập. Chính phủ Hàn Quốc đóng tại Seoul và kiểm soát khu vực Nam Triều Tiên.
Ngay sau đó, ngày 12 tháng 12 năm 1948, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua
nghị quyết thừa nhận chính phủ Đại Hàn Dân Quốc do Tổng thống Rhee Sungman đứng
đầu là chính phủ hợp pháp, duy nhất tại Triều Tiên. Ngày 1 tháng 1 năm 1949, Mĩ
chính thức thừa nhận chính phủ của Rhee Sungman.
Như vậy, Nhật đầu hàng đồng minh là thời cơ
vô cùng thuận lợi để nhân dân Triều Tiên giải phóng dân tộc, giành lại độc lập.
Tuy nhiên, nội bộ Triều Tiên đã bị phân hóa thành những luồng tư tưởng khác
nhau là: chủ nghĩa dân tộc của người Triều Tiên; chủ nghĩa cộng sản theo Liên
Xô và tư tưởng dân chủ thân Mĩ. Cuộc bất đồng, chia rẽ nội bộ cùng với sự can
thiệp của Mĩ và Liên Xô đã đẩy những nổ lực thống nhất Triều Tiên của những
người theo chủ nghĩa dân tộc đi vào con đường bế tắc. Cuối cùng, những người
theo chủ nghĩa dân tộc đã bị những thế lực mạnh hơn cùng với đế quốc gạt ra bên
lề chính trị. Hậu quả là trong vòng hai tháng: tháng 8 và tháng 9 năm 1948,
nhân dân Triều Tiên phải chứng kiến sự ra đời của hai nhà nước trên cùng một
đất nước là : Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc) ở miền Nam (8.1948) và Cộng hòa dân chủ Nhân dân Triều
Tiên ở miền Bắc (9.1948). Vĩ tuyến 38 trở thành ranh giới chia đôi đất nước.