HOA KỲ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI (1919 – 1991)
|
I. SỰ HÌNH THÀNH “TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI”
THEO HỆ THỐNG (VERSAILLES-WASHINGTON
|
1.1.
Sự hình thành Hệ thống Versaillès
|
Cuộc thế
chiến I kết thúc với sự thắng lợi thuộc về phe Hiệp ước mà đứng đầu là Anh,
Pháp, Mĩ, Nhật Bản và Italia. Tuy nhiên, dù thắng trận hay bại trận thì các
nước cũng lâm vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế lẫn chính trị. Để phân
chia thành quả giữa các nước thắng trận và quyết định số phận của những nước
bại trận, các nước đế quốc đã triệu tập Hội nghị ở Versaillès của Pháp và ở
Washington (Mĩ). Những quyết định của các hội nghị này đã hình thành một trật
tự thế giới mới theo hệ thống V- O (Versaillès - Washington)
|
|
Hoàn cảnh lịch sử
|
Chiến tranh thế giới kết thúc, các nước thắng trận họp
hội nghị ở Versaillès để phân chia lại thế
giới .Hội nghị khai mạc ngày 18-1- 1919, trong tình hình thế giới có sự thay
đổi lớn ,đó là:
|
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga làm cho CNTB
không còn là một hệ thống duy nhất trên thế giới. Đồng thời, CMT10 Nga còn thúc đẩy phong trào
cách mạng thế giới phát triển đe dọa đến sự tồn tại của CNTB. Vì thế các nước
đế quốc tìm mọi cách để tiêu diệt nước Nga Xô viết .
|
Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã tàn phá nghiêm
trọng các nước tham chiến, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước tư
bản sau chiến tranh, Mĩ vươn lên hàng đầu về kinh tế, thành chủ nợ của các nước
châu Âu, các nước đế quốc còn lại dù thắng trận hay thất bại cũng đều bị suy
yếu .
|
Hội nghị gồm đại biểu của 27 nước tham dự , nắm quyền
quyết định của hội nghị là 3 cường quốc Mĩ, Anh, Pháp. Mỗi nước đế quốc tham
gia hội nghị đều có tham vọng mục đích riêng, mâu thuẫn với nhau, do đó hội
nghị diễn ra hết sức gay go quyết liệt.
|
Quan điểm của các cường
quốc
|
Pháp muốn dựa vào ưu thế
lục quân của mình để giữ vai trò bá chủ lục địa châu Âu, nhân cơ hội này làm
cho Đức suy yếu hết kình địch với Pháp. Pháp đòi lại vùng Andat và Floren, muốn
chiếm vùng Xarơ của Đức, cắt lãnh thổ của Đức nhập và Đồng minh Pháp, bắt Đức
phải bồi thường chiến tranh lớn và chịu sự kiểm soát về kinh tế quân sự.
|
Anh và Mĩ cũng muốn kiềm chế
Đức phụ thuộc vào mình vừa muốn níu giữ Đức cân bằng với Pháp, đồng thời lại
vừa muốn phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Đức như là một công cụ để tấn công nước
Nga Xô viết. Trong đó, vấn đề nước Đức được các cường quốc chú trọng nhất.
|
Nhật Bản củng cố địa vị ở
Trung Quốc, Nhật Bản
cũng đã dần xâm nhập vào Trung Quốc, bắt nước này kí với Nhật hiệp ước 21
điểm (công nhận ảnh hưởng và quyền
lợi của Nhật ở Trung Quốc, lôi kéo Trung Quốc tham gia chiến tranh). Để
che giấu tham vọng của mình đối với Trung Quốc, Nhật cũng nêu thuyết
"Châu Á của người châu Á", mà thực chất là của Nhật. Nhật được thừa hưởng mọi
quyền lợi của Đức ở vùng Sơn Đông (Trung Quốc). Không những thế, Nhật Bản còn
muốn chiếm cả vùng Viễn Đông của Nga, mở rộng ảnh hưởng ra cả vùng châu
Á-Thái Bình Dương.
|
Italy hy vọng sẽ mở rộng
lãnh thổ của mình xuống xuống vùng Địa Trung Hải và Ban Căng, mở rộng xuống
vùng Bắc Phi.
|
Như vậy các nước đế quốc thăng trận đều tuỳ theo lực
lượng và yêu cầu của mình để tổ chức lại thế giới sao cho phù hợp quyền lợi của
mình nhất và muốn giành lấy những lợi lộc béo bở nhất. Vì thế các nước đế quốc
tranh cãi quyết liệt kéo dài hội nghị nữa năm. Lênin đã bình luận châm biếm rằng
“Chúng cãi cọ nhau từ 5 tháng nay và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi
chỉ còn lại cái đuôi”. Mặc dù không một nước đế quốc nào thỏa mãn kết quả của
hội nghị nhưng cuối cùng, những thoả hiệp và các văn kiện được ký kết giữa
các nước trong hội nghị đã hình thành một hệ thống mới - thường được gọi là hệ
thống hoà ước Versaillès.
|
|
1.2. Sự thành lập
Hội Quốc Liên
|
Để đảm bảo hoàn bình, an ninh thế giới và duy trì hiện
trạng thế giới theo hệ thống Versaillès, các nước đã tiến hành ký kết Quy ước thành lập hội Quốc liên (ngày
25-1-1919). Mục đích thành lập hội Quốc liên: phát triển hợp tác đảm bảo hòa
bình và an ninh cho các dân tộc.
|
Về mặt tổ chức gồm những nước sáng lập và những nước
kí vào quy ước sáng lập.
|
Cơ quan lãnh đạo gồm: Cơ quan chung có Đại hội đồng
gồm đại biểu của tất cà các nước hội viên, họp mỗi năm 1 lần vào tháng 9. Hội
đồng thường trực gồm 5 đại biểu của các cường quốc và một số ủy vên có kì hạn
do Đại hội đồng bàu ra, họp mỗi năm 3 lần. Ban thư kí thường trực như một nội
các làm việc hành chính thường xuyên.
|
Cơ quan chuyên môn gồm có Tòa án Quốc tế và các Cục
Quốc tế, trong đó có Cục Quốc tế Lao động.
|
Nội dung hoạt động của HQL là giám sát việc tái giảm
quân bị, tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị tạm thời, giải
quyết những vấn đế tranh chấp quốc tế. Những quan hệ quốc tế trước trái với
quy ước đều bị hủy bỏ. Nước nào vi phạm bằng biện pháp kinh tế và tài chính.
|
Như vậy Hội Quốc liên được thành lập trước hết nhằm
giữ gìn trật tự của thế giới tư bản do các nước ĐQ chiến thắng sắp đặt tại hội
nghị Versaillès. Nó là kết quả sự
dung hòa mâu thuẫn trong phe ĐQ về việc phân chia lại thế giới chủ yếu là bốn
cường quốc Mĩ, Anh, Pháp, Nhật. Do đó, Hội Quốc liên chỉ là một công cụ của
chủ nghĩa ĐQ nhằm dung hòa và bảo vệ những quyền lợi giữa các nước ĐQ với
nhau, nhưng lại được che đậy bằng những danh từ đẹp đẽ trang trọng.
|
|
1.3. Hội nghị
Washington và vai trò của Mỹ
|
Hội nghị Versaillès kết thúc không một nước nào thỏa mãn với kết quả của
hội nghị đặc biệt là Mĩ, thượng nghị viện Mĩ không thông qua hòa ước Versaillès. Mâu thuẫn Mĩ – Anh, Mĩ – Nhật càng gay gắt
hơn. Do đo tháng 11-1921, Mĩ triệu tập hội nghị Washington gồm Anh, Pháp,
Italy, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc.
|
Phái
đoàn của các cường quốc châu Âu và Mĩ đều do những nhân vật tiếng tăm cầm đẩu:
trưởng đoàn Anh là Bá tước Banphua (Balfour), Pháp là Bơriăng (Briand) và Xarô (Sarraut),
Mĩ là Hingơ (Hughes). Mặc dù đế quốc Mĩ cố che đậy cho Hội nghị Washington bằng những danh từ đẹp đẽ, nhưng mục đích của
Mĩ đề ra cho hội nghị này thật rõ ràng là tìm cách củng cố
vị trí trên thế giới và khu vực Thái Bình Dương trên cơ sở làm thiệt hại quyền
lợi của các địch thủ khác trước hết là Anh và Nhật.
|
Hội nghị đã kí được ba bản hiệp ước quan trọng:
|
Hiệp ước 4 nước (Mĩ, Anh, Nhật, Pháp)
|
Kí ngày 3-12-1921. Hiệp ước "cùng đảm bảo không xâm phạm đến các đảo
thuộc địa ở Thái Bình Dương" đã xác nhận lại về mặt pháp lí việc phân chia
thuộc địa ở Hội nghị Versaillès. Nhân dịp đó, Mĩ
gây áp lực buộc Anh không gia hạn thêm hiệp ước Liên minh Anh – Nhật (kí từ
1902) để cô lập Nhật
|
Hiệp ước 9 nước (6-2-1922)
|
Công
nhận nguyên tắc "hoàn chỉnh về
lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc", đổng thời cũng nêu
nguyên tắc "mở rộng cửa Trung Quốc"
cho các nước tự do vào buôn bán trên cơ sở bình đẳng. Hiệp ước này do các nước đế quốc chủ nghĩa có ít nhiều
quyển lợi khác nhau ở Trung Quốc cùng nhau kí kết nhằm chống lại lợi ích dân
tộc của Trung Quốc, biến Trung Quốc thành một "thị trường chung" của
các nước đế quốc phương Tây và Nhật Bản. Giai cấp thống trị Trung Quốc đã chấp
nhận những điều ước si nhục đó và Mĩ là kẻ thù được nhiều lợi lộc nhất (bởi
Mĩ đã vượt tất cả các nước tư bản chủ nghĩa khác vể công nghiệp và thương
nghiệp, do đó có khả năng loại trừ các đối thủ ra khỏi Trung Quốc bằng một cuộc
cạnh tranh bình thường không đổ máu). Hiệp ước 9 nước còn thể hiện rõ sự cấu
kết giữa các nước đế quốc chủ nghĩa nhằm chống lại phong trào giải phóng dân
tộc ở Trung Quốc và ở các nước thuộc châu Á lúc bấy giờ.
|
Hiệp ước 5 nước (6-6-1922) Mĩ, Anh, Nhật,
Pháp, Italy
|
Quy định tỉ lệ Hải quân cho mỗi nước: Mĩ, Anh bằng
nhau; Pháp, Ý bằng nhau; Nhật xếp sau
Mĩ (theo tỉ lệ mới
5:5:3:1,75:1,75 theo thứ tự các nuớc là Anh: Mĩ: Nhật: Pháp: Ý). Như vậy từ
đây Anh mất quyền bá chủ trước đây trên mặt biển. Rõ ràng, Hội nghị Washington hoàn toàn có lợi cho Mĩ. Trước áp lực của
Mĩ, Nhật phải từ bỏ một phần khá lớn ưu thế đã giành được trong Chiến tranh
thế giới thứ nhất ở Trung Quốc. Anh phải nhượng bộ Mĩ, nhận quyền bình đẳng về
hải quân và hủy bỏ Liên minh Anh - Nhật (nhằm chống lai Mĩ). Như thế là Mĩ nắm
được thị trường Viễn Đông và
Trung Quốc, nâng cao địa vị hải quân của mình lên hàng đẩu thế giới trước sự lùi bước tạm thời của các đế quốc khác, nhất
là Nhật. Mĩ giữ được vai trò lãnh đạo ở Hội nghi Washington là do kết quả trực tiếp của sự thay đổi so
sánh lực lượng có lợi cho Mĩ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Với hệ thống hiệp ước Washington, Mĩ giải quyết quyền lợi của mình không phải
trong "khuôn khổ" của hệ thống hòa ước Versailles mà bằng cách lập thêm một "khuồn khổ"
mới do Mĩ chi phối. Khuôn khổ mới này, một mặt chống lại khuôn khổ cũ của hệ
thống hòa ước Versailles (mà Quốc hội Mĩ không thừa nhận), làm cho tác dụng thực tiễn của nó
bị suy yếu đi, nhưng mặt khác lại bổ sung vào khuôn khổ cũ để hình thành nên
một khuôn khổ mới vể tổ chức lại thế giới một cách hoàn chỉnh hơn sau chiến
tranh. Đó là hệ thống Versailles - Washington.
|
II. THỜI KÌ PHỤC
HỒI KINH TẾ (1918-1929)
|
|
|
2.1.
Tình hình kinh tế, chính trị các nước
TB
|
Ngày 11-11-1918, nước Đức chính thức kí đình chiến.
Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt với sự thất bại hoàn toàn của khối
liên minh Đức – Ao.
|
Chiến tranh đã gây ra những tổn thất nặng nề về người
và của cho cả hai phe tham chiến. Chiến trường chính diễn ra ở Châu Âu, vì thế
các cường quốc TBCN châu Âu bị suy yếu nghiêm trọng.
|
Hai cường quốc tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy chiến
thắng, nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ nhiều sau chiến tranh. Anh bị mất 70%
tàu buôn nên nền ngoại thương – một ngành quan trọng của đế quốc Anh – giảm
sút, chỉ còn bằng nửa chiến tranh. Nợ nhà nước tăng lên gấp 12 lần so với năm
1914. Từ vị trí chủ nợ, Anh trở thành con nợ của Mĩ với 5,6 tỉ đôla. Năm
1920, sản lượng công nghiệp giảm sút 32,5% so với năm 1913.
|
Sau chiến tranh, Pháp lấy lại được vùng Anđát và
Loren, quyền khai thác than vùng than Xarơ, một phần thuộc địa của Đức ở châu
Phi, tiền bồi thường chiến tranh… nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn. Mười tỉnh có
nền nông nghiệp phát triển nhất bị phá hoại hoàn toàn. Tổng số thiệt hại của
Pháp lên tới gần 200 tỉ phơrăng. Nước Pháp có 1,5 triệu người chết. Do cách mạng
Nga thành công , nước Pháp mất nguồn nguyên liệu quan trọng do nước Nga cung
cấp (55% sắt, 74,3% than, 18,5% dầu lửa), mất vốn đấu tư ở Nga tương đương với
13 tỉ phơrăng. Trong khi đó những món nợ khổng lồ Pháp vay của Mĩ đã vượt quá 4 tỉ đôla.
|
Italia tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất về
phía phe “Hiệp ước”nên cũng là nước chiến thắng. Nhưng là một đồng minh lép vế,
Italia không được gì trong cuộc chia phần ở Hội nghị Vécxai. Trong khi đó,
chiến tranh đã làm cho đất nước kiệt quệ, tiêu mất 65 tỉ lia vàng, gần 60%
tàu buôn bị hủy hoại, 63,4 vạn người bị giết, vay của Mĩ, Anh 4 tỉ đôla.
|
Tình cảnh các nước thất trận như Đức, Ao – Hung còn
bi đát hơn nhiều. Chiến tranh đã tàn phá nặng nề đất nước. Sau chiến tranh,
hai đế quốc này lại bị các nuớc thắng trận trừng phạt, bắt bối thường nặng nề,
tước hết thuộc địa, xâu xé đấu nước (Đức mất 1/8 lãnh thổ, đế quốc Ao – Hung,
bị chia làm nhiều quốc gia tư sản độc lập).
|
Tóm lại, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các cường
quốc châu Âu đều lâm vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, đặc biệt trong những
năm 1920 –1921. Trong khi đó, các cường quốc ngoài châu Âu như Mĩ và Nhật không bị tàn phá bởi chiến tranh
lại được hưởng nhiều quyền lợi do chiến tranh đem lại, đã vượt nhiều nước
TBCN ở châu Âu về kinh tế và tài chính. Làm thay đổi tương quan so sánh lực
lượng giữa các cường quốc tư bản châu
Âu vốn chiếm vị trí trung tâm của chủ nghĩa tư bản thế giới trước đây.
|
Nước Mĩ trở thành nước giàu mạnh nhất và là trung
tâm công nghiệp, thương mại và tài chính quốc tế (châu Âu nợ Mĩ trên 10 tỉ
đôla, Mĩ có dự trữ vàng lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 1/3 số vàng thế giới).
Cũng từ đó đánh dấu giai đoạn mới
trong cố gắng vươn lên chiếm vị trí bá quyền thế giới của Mĩ. Tuy nhiên, khủng
hoảng kinh tế 1920-1921 ở châu Âu cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế của Mĩ. Nhu
cầu hàng hóa Mĩ ở châu Âu giảm đi, trong khi sức mua của nhân dân Mĩ giảm
sút. Tháng 7-1920, cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra ở Mĩ. Đến tháng 3-1921, sản
lượng công nghiệp giảm sút 1/3. Số xí nghiệp bị phá sản ngày càng nhiều. Cuộc
khủng hoảng nông nghiệp cũng diễn ra cùng lúc với khủng hoảng công nghiệp.
|
Cũng giống như Mĩ , Nhật bản đã phát triển kinh tế mạnh
mẽ nhờ lợi dụng chiến tranh thế giới. Trong thời gian 1914 – 1919, sản lượng
công nghiệp Nhật tăng gấp 5 lần. Nhiều công ti mới của Nhật ra đời. Thanh
toán mậu dịch từ 1915 đến 1920 dư thừa 1.207 triệu yên. Sự bột phát của kinh
tế Nhật còn tiếp tục 18 tháng sau chiến tranh kết thúc. Sau đó, Nhật cũng lâm
vào cuộc khủng hoảng kinh tế 1920 – 1921. Nền kinh tế bị sa sút nhiều công ti
bị thua lỗ hoặc phá sản. Số người thất nghiệp lên tới 12 vạn.
|
Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ 2, tất cả các
nước TBCN đã lần lượt lâm vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, làm cho đời sống
của nhân dân, nhất là những người lao động, cực khổ. Tình hình ấy cùng với ảnh
hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn đến một cao trào cách mạng hết sức
mạnh mẽ làm lay CNTB đến tận gốc rễ.
|
2.2. Nước Mĩ
|
Giai đoạn 1918-1921
|
|
Mĩ tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất từ 4/1917
và đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng của đồng minh cũng như việc đã
trở thành trọng tài trong cuộc đàm phán để đi đến hòa ước Vecxai. Cũng trong
thời gian này Mĩ trở thành là chủ nợ, nhất là đối với các nước tư bản chủ
nghĩa châu Âu đang bị suy yếu bởi chiến tranh. Theo con số thống kê, sau chiến
tranh thế giới thứ nhất, châu Âu nợ Mĩ trên 10 tỉ đôla. Hai năm sau đó, do
nhu cầu về hàng hóa của các nước tư bản chủ nghĩa châu Âu sau chiến tranh, đã
tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho Mĩ phát triển một nền kinh tế công nghiệp
cực kì phát triển. Năm 1919 hàng Mĩ xuất sang châu Âu con số lên tới 8 tỉ
đôla, vốn đầu tư dài hạn ra bên ngoài của Mĩ là 6,4 tỉ đôla. Mĩ cũng là nước
có dự trữ vàng lớn nhất thế giới lúc bấy giờ ( chiếm 1/3 dự trữ vàng thế giới).
|
Tình hình kinh tế phát triển thuận lợi trong và sau
chiến tranh thế giới thứ nhất đã biến Mĩ thành một nước giàu mạnh nhất, là
trung tâm kinh tế, thương mại và tài chính quốc tế. Đây cũng là thời gian, Mĩ
cố gắng vươn lên giành quyền bá chủ thế giới.
|
Những điều kiện để phát triển một nền kinh tế ở Mĩ
chấm dứt vào năm 1920, khi nhu cầu hàng hóa Mĩ của các nước tư bản chủ nghĩa
châu Âu giảm đi và sức mua của người lao động Mĩ cũng giảm sút, đã đưa nền
kinh tế Mĩ bước sang một thời kì long đong, công nghiệp bị đình đốn, công
nhân thất nghiệp đầy đường, đời sống của người lao động hết sức khó khăn, đó
là ngòi nổ của các cuộc đấu tranh, bãi công của công nhân Mĩ.
|
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất vừa mới kết
thúc, ở Mĩ đã nổ ra những cuộc bãi công lớn ( hơn 4 triệu công nhân bãi công-
năm 1919), phong trào đấu tranh diễn ra gay gắt trong các ngành như: ngành
than, luyện thép và ngành giao thông vận tải đường sắt. Tiêu biểu là phong trào bãi công của 35 vạn công nhân
luyện thép vào 9/1919, kéo dài đến 4 tháng, mặc dù sau đó bị đàn áp và thất bại
nhưng phong trào đã ngăn chặn việc hạ tiền lương công nhân của giới chủ trong
nghành này.
|
Tuy nhiên, hầu như tất cả các phong trào của công
nhân Mĩ từ 1919-1921 đều diễn ra lẻ tẻ, theo hình thức của một nhóm nhỏ và
chưa có đường lối, tổ chức rõ ràng, cho nên hầu hết đều thất bại.
|
Năm 1918-1919, ở Mĩ xuất hiện hai Đảng Cộng sản: Đảng
Cộng Sản Mĩ và Đảng Cộng Sản công nhân Mĩ. Sự ra đời của hai Đảng Cộng Sản
này chính là hệ quả của việc ảnh hưởng Cách mạng tháng Mười Nga và là hiện
thân của Đảng Bônshêvích, tuy nó không có vai trò rõ ràng như các nước khác.
Đến năm 1921, hai đảng này hợp nhất lại thành Đảng Cộng Sản Mĩ. Tiếp tục lãnh
đạo phong trào đấu tranh, bãi công của công nhân và thành lập các tổ chức
công đoàn.
|
Cuối năm 1920, sau cuộc tổng tuyển cử, Đảng Cộng hòa
đã giành thắng lợi và Hácđinh là vị Tổng thống đầu tiên của Đảng Cộng hòa
(3/1921), đã đưa ra những biện pháp và chính sách tích cực, kích thích nền
công nghiệp sản xuất Mĩ phát triển mạnh mẽ.
|
Giai đoạn 1922-1929
|
|
Khi lên nắm chính quyền, Đảng Cộng Hòa đã cố gắng
đưa ra những biện pháp tích cực nhất cho Mĩ phát triển một nền công nghiệp (đạo
luật thuế quan Fordney (1922) và đạo luật Halew (1929) nhằm đẩy hàng rào thuế
quan lên một mức cao hơn, đảm bảo vị thế độc quyền cho các nhà sản xuất Mĩ
trong thị trường nội địa cũng như trên trường quốc tế).
|
Đạo luật năm 1920, Chính phủ Cộng hòa đã giao quyền
quản lí đường sắt cho các doanh ngiệp mà trước đây thuộc quyền sở hữu của nhà
nước trong chiến tranh. Đội tàu buôn thuộc quyền quản lí của Chính phủ nay
cũng được bán lại cho các doanh nghiệp, phục vụ cho việc sản xuất.
|
Chính nhờ những chính sách tích cực như vậy, đã để lại
những kết quả cũng hết sức tích cực: mà người ta hay gọi đây là thời kì “ phồn
vinh” của nền kinh tế Mĩ:
|
+ Từ năm 1922 Mĩ đã có một nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ, trong khi các nước cạnh tranh Mĩ vẫn đang còn trong tình trạng phục hồi.
Mĩ đã khẳng định được vị thế số 1 của mình và ngày càng vượt trội so với các
đối thủ.
|
+ Năm 1922, tại hội nghị Giơnevơ đồng đôla được công
nhận là tiền quốc tế cùng với đồng bảng Anh. Quy chế này đã khẳng định vị trí
của Mĩ và từ đó Mĩ được hưởng nhiều lợi thế trên tất cả các mặt.
|
Đây là giai đoạn Mĩ nằm ở trong thời kì Công nghiệp
hóa phát triển cao cùng với sự tích tụ và tập trung tư bản mạnh mẽ. Các xí
nghiệp ngày càng được mở rộng về quy mô và sản xuất ra nhiều loại sản phẩm.
|
Từ năm 1922-1929, trong nghành công nghiệp chế biến
Mĩ đã có 5.400 trường hợp “hợp chất” các xí nghiệp vừa và nhỏ. Tư liệu sản xuất
tư bản chủ nghĩa được áp dụng mạnh mẽ bằng các phương pháp For và phương pháp
Taylo. Đã đưa lại cho nền kinh tế Mĩ một nền công nghiệp phát triển hết sức mạnh
mẽ.
|
Thay đổi kĩ thuật và phương pháp sản xuất tiên tiến
đã àm cho nền kinh tế Mĩ, vốn có nhiều lợi thế hơn so với các nước tư bản chủ
nghĩa Châu Âu, phát triển với một tốc độ nhanh- mạnh trong suốt thời kì ổn định
của các nước tư bản chủ nghĩa.
|
Sản lượng công nghiệp Mĩ năm 1923-1929 tăng 69%.
|
Sản lượng công nghiệp Mĩ 1926-1929 vượt quá 9% so với
5 cường quốc Pháp, Anh, Đức, Nhật và Italia cộng lại.
|
Tư bản công nghiệp ở Mĩ tăng từ 6 tỉ 456 triệu đôla
(1919) lên đến 14 tỉ 416 triệu đôla. Con số khổng lồ đó đã chứng minh cho sự
phát triển nhanh- mạnh, phồn vinh của nền kinh tế Mĩ.
|
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển phồn vinh và kì diệu
này, ở Mĩ vẫn tồn tại những mặt hạn chế về kinh tế, nhiều nghành công nghiệp
Mĩ trong giai đoạn này chỉ sử dụng 60-80% công suất. Tình trạng công nhân thất
nghiệp thường xuyên xảy ra, năm 1922-1927, công nhân thất nghiệp ở Mĩ lên tới
3,4 triệu. Đồng thời do phương châm “ tự do thái quá” của nền kinh tế Mĩ mà dẫn
đến tình trạng phát triển không đồng đều giữa các nghành công nghiệp cũng như
giữu công nghiệp và nông nghiệp. Nông nghiệp Mĩ trong giai đoạn này sa sút
nghiệp trọng, mức tiêu thụ giảm đi còn một nửa so với thời kì 1900-1920. Đời
sống nông dân khó khăn.
|
Nhưng nhìn chung thì đây là một giai đoạn phát triển
thịnh vượng nhất của nước Mĩ, đã mang lại cho người dân một cuộc sống tương đối
đầy đủ: Một gia đình bình thường Mĩ lúc này có thể mua được một chiếc ôtô bằng
chính số tiền của họ, mua những vật dụng đáng giá và thường xuyên đến rạp chiếu
phim…
|
|
|
chính trị- xã hội
|
Ở Mĩ “kinh doanh là kinh doanh”, đó là lời tuyên bố
đanh thép của Culítgiơ, vị tổng thống kế vị sau khi Hácđinh chết. Điều đó chứng
tỏ ông ta có năng lực lãnh đọa hơn Hácđinh. Ông hủy bỏ những chính sách kinh
tế bảo thủ của Hácđinh nhưng cuối cùng chính ông cũng mắc vào cái vòng luẩn
quẩn ấy.
|
Về mặt đối nội: Đảng Cộng hòa ra sức đàn áp phong
trào bãi công của công nhân, đồng thời thi hành những chính sách nhằm tiêu diệt
những tư tưởng “cấp tiến”. Vào tháng 8/1927, Đảng Cộng hòa đã đưa ra xét xử tử
hình hai nạn nhân là công nhân gốc Ý vì tội đề ra tư tưởng “tiến bộ”. Thi
hành những chính sách bảo thủ, khiến đời sống người dân vô cùng khổ cực.
|
Về mặt đối ngoại:
Theo đuổi lập trường chống Nga- Xô Viết, cự tuyệt tất cả những đề nghị
về xây dựng mối quan hệ với Liên bang Nga. Chi phối và điều khiển các nước tư
bản chủ nghĩa theo quỹ đạo của Mĩ, thông qua hệ thống “Hiệp ước Oasinhtơn”. Đồng
thời mở rộng thế lực ra Thái Bình Dương và Viễn Đông. Còn ở khu vực Mĩ
Latinh, Mĩ sử dụng học thuyết của Mơnrô “Châu Mĩ của người Mĩ” để giải thích
những hành động của mình.
|