LÊ TÙNG LÂM
Bài đăng trên Tạp
chí Hồn Việt, số tháng 9/2014
HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM
Hoàng Sa là mảnh đất thiêng liêng của tổ
quốc Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những bằng chứng hiện hữu đã khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Trong sách Toàn
tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư được phổ biến vào năm 1630, Đỗ Bá đã mô tả :
“Giữa biển có một dãi cát gọi là Bãi Cát
Vàng dài ước chừng 400 dặm, ngang 20 dặm, chạy dài từ cửa Ðại Chiêm đến cửa
Sa Vinh”[1] ngoài khơi hai tỉnh Quảng Nam
và Quảng Ngãi ngày nay, cách bờ biển khoảng 135 hải lý. Bãi Cát Vàng là tên gọi
bằng chữ Nôm của quần đảo Hoàng Sa.
Ngoài ra, các tư liệu về sự
phát hiện và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa cũng được ghi
chép trong nhiều tác phẩm nổi tiếng.
Chẳng hạn, trong Phủ biên tạp lục (1775), Lê Quý Đôn đã
viết : “Xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi gần bờ biển. Hướng Đông
Bắc ngoài biển có nhiều đảo và nhiều núi linh tinh hơn 130 đỉnh…Ngày trước, họ
Nguyễn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất lấy người ở xã An Vĩnh sung vào…Họ
Nguyễn còn thiết lập thêm đội Bắc Hải[2] để quản lý quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa”.
Đại Nam thực lục cũng ghi nhận việc họ Nguyễn cử đội Hoàng Sa “đến tháng 3 thì đi
thuyền ra (Hoàng Sa), độ 3 đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8
thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã
Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn để tìm hóa
vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”[3]. Đây là nguồn tư liệu gốc
quan trọng xác lập chủ quyền của các Chúa Nguyễn đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Đầu thế kỉ XIX, vương
triều Nguyễn xác nhận rõ ràng hơn về chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Đại Nam thực lục ghi nhận rằng năm 1803,
Gia Long “lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngữ cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi), sai mộ
dân ngoại tịch làm đội Hoàng Sa”[4]. Năm 1834, Minh Mạng sai
Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến
đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ[5]. Trên bản đồ Đại Nam nhất
thống toàn đồ đã ghi rõ ràng Hoàng Sa (số 1) và Trường Sa (số 2) là thuộc chủ quyền
của Việt Nam. Năm 1835, vua Minh Mạng “sai cai đội thủy quân Phạm Văn Nguyên
đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên
chở vật liệu đến (Hoàng Sa) dựng miếu. Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước miếu
xây bình phong, 10 ngày làm xong rồi về”[6].
Đại
Nam thực lục viết về Đội Hoàng Sa
Những tư liệu này là chứng
cứ xác thực của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Không những thế, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quân đảo này
cũng được các nhà khoa học trên thế giới công nhận.
Năm 1827, Philippe Vandermaelen (1795 - 1869), nhà địa lý học,
thành viên Hội Địa lý Paris, xuất bản bộ Atlas thế giới gồm 6 tập với 7 bản đồ chung về 5 châu lục.
Trong tập 2 của Atlas, Việt Nam
được giới thiệu thông qua các tấm bản đồ số 97, 105, 106, 110. Partie de la Cochinchine (Bản đồ xứ Đàng
Trong) là tờ số 106, vẽ đường bờ biển miền Trung từ vĩ tuyến 12 đến
vĩ tuyến 16. Phía ngoài khơi, Paracels (tức Hoàng Sa) được vẽ khá chi
tiết và chuẩn xác trong khoảng vĩ độ từ 16 đến 17 và kinh độ từ 109
đến 111[7]. Đây là cơ sở pháp lý vững
chắc mang tính quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.
Như vậy, đến đầu thế kỷ XIX, vương triều Nguyễn được thành lập và
khẳng định chủ quyền của Việt Nam một cách đầy đủ, thật sự theo
đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ được phương Tây thừa nhận, bản đồ
phương Tây chính thức xác nhận quần đảo Paracels (Hoàng Sa) nằm trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam[8].
Các tài liệu của người
Pháp, như quyển Mémoire sur la Cochinchine của
Jean-Baptiste Chaigneau (1769-1852) và quyển Univers, Histoire et
Description de tous les peuples (xuất bản vào năm 1833), đều thừa
nhận “đảo Paracels mà người Việt gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) gồm nhiều đảo
san hô chằng chịt thuộc xứ Ðàng Trong cai quản, Hoàng đế Gia Long đã thân chinh
vượt biển tiếp thu quần đảo vào năm 1816, chính ngài đã long trọng thượng cờ
tại đó”[9].
Năm 1930, chính quyền Pháp
tại Ðông Dương đã chính thức cắm cờ trên đảo và đến năm 1933 phái 3 chiếc tàu
mang tên Alert, Astrobal và De Lanessan đến từng đảo một trong quần
đảo Trường Sa (mà Pháp gọi là Spratley) để cắm cờ, thu nhận các đảo An Bang
(Amboya Cay), Trường Sa (Spratley), Ba Bình (Itu Aba), Thị Tứ, Loại Ta[10]. Đây là những bằng chứng
quan trọng về chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa va Hoàng Sa thời thuộc
Pháp.
Ngày 7-9-1951, Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố
tại Hội nghị San Francisco (Mỹ) rằng “chủ quyền của chúng tôi trên tất các đảo
Spatly (Trường Sa) và Paracels (Hoàng Sa) đã thuộc về Việt Nam từ mọi thời đại”[11]. Tuyên bố này không gặp
phải bất kì một sự phản đối nào từ các nước. Nó cũng có nghĩa là các nước đã
công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Ngày 13-7-1961, Tổng thống
chính quyền Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh: “Quần đảo Hoàng Sa
trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam…Một đơn vị hành
chính xã bao gồm trọng quần đảo này được thành lập là lấy tên là xã Định Hải,
trực thuộc quận Hòa Vang” (Quảng Nam) [12].
Như vậy, những văn kiện
trên là những chứng cứ xác thật và không thể chối cãi về chủ quyền của Việt Nam
đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Thế nhưng, ngày 19-1-1974, Trung Quốc đã đem
quân xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam.
Lê Tùng
Lâm
TRUNG
QUỐC ĐÁNH CHIẾM HOÀNG SA CỦA VIỆT NAM
&
TRÁCH NHIỆM CỦA MỸ
Lê Tùng Lâm
Trường
Đại học Sài Gòn
Trung Quốc
lấn chiếm Hoàng Sa trước năm 1974
Mặc dù giới cầm quyền Bắc Kinh không ngừng rêu rao
Hoàng Sa và Trường Sa là của họ, nhưng họ không thể đưa ra bất cứ một chứng cứ
nào. Trong lịch sử, các triều đại phong kiến Trung Quốc đều xác nhận cương vực của
Trung Hoa chấm dứt ở đảo Hải Nam. Thanh Sử
Cảo cũng không đả động đến Hoàng Sa vàTrường
Sa. Các bản đồ
chính thức do các Nhà nước phong kiến và dân quốc Trung Hoa vẽ như Hoàng dư toàn lãm đồ (1717), Đại Thanh nhất thống toàn đồ (1818), Trung Hoa Dân quốc toàn đồ v.v… đều xác
định phần đất cực Nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam và không có đất đai nào
khác ở trên Biển Đông. Tất cả các bản đồ của Trung Quốc từ đầu thế kỷ XX
trở về trước cũng hoàn toàn thống nhất với bản đồ phương Tây, không
hề vẽ lãnh thổ cực nam của Trung Quốc vượt xuống dưới vĩ độ 18[13].
Năm 1909, Lý Chuẩn được vua Thanh cử
đến quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, lúc này Hoàng Sa đã không còn là một lãnh thổ
vô chủ nữa. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình từ ít nhất là năm 1816. Mặt
khác, Trong tập Atlas thế giới năm
1827 của Philippe Vandermaelen cũng không thừa nhận đều đó. Bản đồ Partie De La Chine (Bộ phận thuộc Trung
Quốc) tờ số 98, trang 109, vẽ phần lãnh thổ cực nam của Trung Quốc bao gồm tỉnh
Quảng Đông, đảo Hải
Trung Hoa Dân quốc toàn đồ, bản
đồ chính thức của Trung Quốc từ 1911
Nam và ba cụm đảo ở phía đông đảo Hải Nam, chỉ giới hạn
trong phạm vi phía bắc vĩ tuyến 180 B, mà không bao gồm quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam[14].
Đây là chứng cứ khẳng định quần đảo Hoàng Sa không thuộc về Trung Quốc. Như vậy,
các bản đồ của Nhà nước phong kiến Trung Quốc và thế giới đều thừa nhận cương
vực cuối cùng của Trung Quốc là đảo Hài Nam chứ không hề có Hoàng Sa và Trường
Sa.
Năm 1935, trước những hành động của
Pháp trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Hoa Dân quốc (THDQ) đã cho xuất
bản một bản đồ chính thức đầu tiên về các đảo trên Biển Đông (mà họ gọi là Nam
Hải). Tuy nhiên, bản đồ này chưa thể hiện “đường lưỡi bò”. Tháng 1-1948, Bộ
Nội vụ THDQ công bố bản đồ các đảo trên Nam Hải, lần này có vẽ thêm một đường
hình chữ U 11 đoạn thường được gọi là “đường lưỡi bò” bởi nó giống cái lưỡi bò
liếm xuống biển Đông[15]. “Đường lưỡi bò” này bao trùm cả bốn nhóm
quần đảo, bãi ngầm lớn trên biển Đông là các quần đảo Hoàng Sa (Paracels),
Trường Sa (Spratlys), Pratas (Trung Quốc
gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung Quốc gọi là Trung Sa). Thế
nhưng, ngay từ lúc đầu, đường lưỡi bò này đã bộc lộ tính không chính xác, không
ổn định, không được xác định tọa độ rõ ràng và không biểu thị là một đường biên
giới quốc gia.
Năm 1946, trên tinh thần Tuyên bố Cairo và Nghị quyết Potsdam, 4 tàu chiến của THDQ đổ bộ lên quần đảo Hoàng
Sa với cớ giải giới quân Nhật. Ngày 7-1-1947, chính phủ THDQ tuyên bố họ đã
chiếm giữ quần đảo Tây Sa, nhưng thực ra mới chỉ chiếm đảo Phú Lâm (Woody
Island, mà họ gọi là đảo Vĩnh Hưng). Năm 1949, THDQ rút khỏi đảo Phú Lâm. Pháp gửi quân Pháp-Việt
trở lại giữ đảo.
Sau khi thành lập (1-10-1949), nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) tiếp tục thừa nhận bản đồ 1948 của THDQ.
Tuy nhiên, CHNDTH chưa yêu sách các vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” như các
vùng nước lịch sử. Tại Hội nghị San Francisco (9-1951), các quốc gia tham gia
cũng đã khước từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa[16]. Trong thực tế, “đường lưỡi bò” chưa bao
giờ được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Mặt khác, đại diện của CHNDTH cũng không
tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III[17] tại New York năm 1973. Do đó, những hành
vi bí mật xâm lược trên không thể tạo nên cơ sở cho quyền chủ quyền của Trung
Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Theo Hiệp định Genève 21-7-1954, Việt Nam Cộng hòa (VNCH) quản lý quần
đảo Hoàng Sa. Năm 1956, lực lượng hải quân VNCH
tiếp tục thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, đảo lớn
nhất là Phú Lâm đã bị CHNDTH bí mật chiếm trước khi quân đội VNCH ra đóng giữ.
Năm 1958, Điều 1 Tuyên bố về lãnh hải của CHNDTH đã nhấn
mạnh rằng: “Chiều rộng lãnh hải nước CHNDTH là 12 hải lý. Điều khoản này áp
dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước CHNDTH, bao gồm lục địa Trung Quốc và các
đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Đài Loan và xung quanh đó, quần đảo
Penghu (Bành Hồ) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc bị phân cách với đất
liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả”[18]. Như vậy, tuyên bố năm 1958 của CHNDTH
cũng không thể bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo như “đường lưỡi bò” đã
công bố của họ.
Trong thời gian 1964-1970, Hải quân
Trung Quốc và Hải quân VNCH chạm súng nhiều lần trên hải phận Hoàng Sa, nhưng
không đưa đến thương vong. Trong thời điểm đó, VNCH cũng thiết lập một sân bay
nhỏ tại đảo Hoàng Sa. Mặc dù CHNDTH đã chiếm đóng trái phép tại hai đảo Phú Lâm
và Linh Côn trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, chủ quyền của Hoàng Sa và
Trường Sa vẫn do chính quyền VNCH nắm giữ.
2.
Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa (1974) và trách nhiệm của người Mỹ
Âm mưu xâm chiếm Hoàng Sa của Trung
Quốc đã có từ thời THDQ nhưng nó chưa thực hiện được. Đến cuối những năm 60 của
thế kỉ XX, giới cầm Bắc Kinh nhận thấy thời cơ để đánh chiếm Hoàng Sa của Việt
Nam đã đến vì:
1- Từ năm 1967, Richard Nixon – sau
này là tổng thống của Mỹ - kêu gọi thừa nhận “thực tại Trung Quốc” và thực hiện
đường lối lôi kéo Trung Quốc vào cộng đồng thế giới với tư cách là “một quốc
gia hùng mạnh và tiến bộ chứ không phải là tâm điểm của cách mạng thế giới”[19]. Do
đó, Washington bắt đầu những động thái xích lại gần với Trung Quốc.
2- Năm 1970, Đô đốc Elmo
Zumwalt, cựu Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ, tuyên bố tại Guam rằng
Hoàng Sa và Trường Sa không nằm trong chiến lược triển khai các hải đảo tiền
đồn của Hạm đội 7 Mỹ. Theo
nhận định của chính giới VNCH lúc đó, đây là sự trao đổi quyền lợi giữa Mỹ và Trung Quốc và là nguy cơ cho VNCH trong việc bảo vệ Hoàng Sa[20].
Rõ ràng tuyên bố trên của Mỹ là một sự nhân nhượng có toan tính của Mỹ trong
chính sách đối ngoại với Trung Quốc. Sự “bỏ rơi” Hoàng Sa và Trường Sa của Mỹ
đã tạo cho Bắc Kinh có cơ hội để tiếp tục thực hiện các hành động lấn chiếm ở
đây.
3- Năm 1972, Richard Nixon (lúc này
đã vào Nhà Trắng) cùng cố vấn Henry Kissinger và ngoại trưởng William Rogers
sang thăm chính thức Trung Quốc. Ngày 28-2-1972, Mỹ và Trung Quốc đã ký Thông cáo chung Thượng Hải và xác định
sự ủng hộ của Mỹ đối với CHNDTH. Đồng thời, Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố
chung phản đối "bá quyền" tại châu Á và Thái Bình Dương. Rõ ràng, chuyến
viếng thăm Trung Quốc của R.Nixon làm cho những “hiểu lầm” trong quan hệ
Trung-Mỹ đã được tháo bỏ. Đây là cơ sở quan trọng cho những hoạt động của Bắc
Kinh trong giai đoạn sau. Năm 1973, Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc ở
thủ đô mỗi nước mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
4- Tháng 1-1973, Mỹ ký Hiệp định Paris và rút quân đội ra khỏi
Miền Nam Việt Nam. Đồng thời Hạm đội 7 cũng được rút ra khỏi khu vực quần đảo
Hoàng Sa. Trong thực tế, Mỹ “bỏ rơi” Hoàng Sa, xem việc bảo vệ quần đảo này là
việc riêng của VNCH.
5- Đầu năm 1974, VNCH phải đối mặt
với hàng loạt khó khăn về tài chính, quân sự khi Mĩ rút quân theo Hiệp định
Paris. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã mở nhiều cuộc tiến công ở Khu V và
Nam Bộ.
Việc Mỹ “bỏ rơi” Hoàng Sa và làm ngơ
trước các hành động của Trung Quốc đã tạo điều kiện cho Trung Quốc tiến tới
chiếm toàn bộ Hoàng Sa vì “nếu chậm
chân, họ (TQ) sẽ khó làm được điều đó sau khi Việt Nam thống nhất[21]”.
Do đó, để có cớ xâm lược Hoàng Sa, ngày 11-1-1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra
tuyên bố : Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo VNCH chiếm đóng bất hợp pháp[22].
Đồng thời, “để làm hậu thuẫn cho những lời tuyên bố vô căn cứ,
Trung Quốc tung nhiều tàu đánh cá võ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ
quân giả dạng ngư phủ lên các đảo không có lực lượng quân đội VNCH đóng” [23].
Sau đó, Đêm 17-1-1974, Chu
Ân Lai cùng với Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị phái quân ra quần đảo Hoàng Sa[24].
Mao Trạch Đông phê : “Đồng
ý ! Trận này không thể không đánh”. Mao Trạch Đông giao cho
Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình trực
tiếp chỉ huy trận đánh tại quần đảo Hoàng Sa[25].
Như vậy từ đầu, giới cầm quyền Bắc Kinh đã thống nhất với nhau về mục tiêu
trong việc xâm chiếm Hoàng Sa.
Ngày
18-1-1974, Chu Ân Lai triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung
Quốc để thảo luận tình hình Hoàng Sa và lập ra ban chuyên trách năm người
phụ trách kế hoạch đánh Hoàng Sa - mà phía Trung Quốc gọi là “Cuộc phản kích
Tây Sa” để tuyên truyền trong nước và che mắt dư luận quốc tế. Các lãnh đạo cấp
cao gồm Diệp Kiếm Anh - Chủ nhiệm Ban chuyên trách, cùng Vương Hồng Văn,
Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình và Trần Tích Liên đã nghe Tô Chấn
Hoa, Phó Tư lệnh Hải quân, báo cáo tình hình và đề nghị tấn công[26].
Ban chuyên trách công bố bản hướng dẫn nhằm đánh lại các tuần dương hạm của VNCH.
Căn cứ vào bản hướng dẫn này, hải quân Trung Quốc lập kế hoạch chuẩn bị cho chiến
dịch[27].
Sáng ngày 19-1-1974, hồi 10 giờ 20, một hộ tống hạm Trung Quốc thuộc loại
Kronstadt bắn vào khu trục hạm Trần
Khánh Dư mang số HQ-4 của VNCH. Để tự vệ, các chiến hạm
VNCH đã phản pháo và gây hư hại cho hộ tống hạm Trung Quốc. Cuộc giao tranh gây
thiệt hại về nhân mạng và vật chất cho cả đôi bên[28]. Trong khi chiến
sự đang diễn ra tại Hoàng Sa, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình và Tô Chấn Hoa báo
cáo lên Mao Trạch Đông đề nghị cho phép quân đội Trung Quốc chiếm tất cả các đảo
do VNCH kiểm soát. Mao đã chấp thuận đề nghị này[29]. Như vậy, hành động xâm lược trắng trợn của
Trung Quốc đã đánh tan luận điểm xuyên tạc về việc “bảo vệ chủ quyền” – cái mà
Trung Quốc chưa từng có tại Hoàng Sa.
Khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư
Không chấp nhận việc Trung Quốc xâm lược
Hoàng Sa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra Tuyên bố
khẳng định chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi
dân tộc, mọi tranh chấp về biên giới và lãnh thổ giữa các nước có liên quan phải
được giải quyết bằng thương lượng trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,
hữu nghị và láng giềng tốt.
Trong khi đó, VNCH tìm cách đánh bại và giành lại chủ quyền
từ Trung Quốc bằng hai con đường như sau:
Đấu
tranh bằng con đường ngoại giao
Trước hành động ngang nhiên xâm lược của Trung Quốc,
ngay trong ngày 19-1-1974, Bộ Ngoại
giao VNCH đã ra Tuyên bố một mặt khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa, mặt khác nêu rõ “các hành động quân sự của Trung Cộng
là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ VNCH, và một lần nữa vạch trần
chánh sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo đuổi”[30].
Ngày
20-1-1974, VNCH đã chính thức gửi thư đến Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc
(HĐBA.LHQ), yêu cầu triệu tập cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an để xem xét hành
động xâm lược của Trung Quốc “nhằm thực hiện các hành động khẩn cấp để sửa chữa
tình hình và chấm dứt việc xâm lược” [31].
Thế nhưng, thái độ của Mỹ đã làm cản trở quá trình đấu tranh của VNCH.
Trước diễn biến phức tạp này, cũng trong ngày 20-1-1974, Đại sứ Mỹ tại Sài
Gòn - Graham
Martin đã gởi một bức điện về cho Bộ Ngoại giao Mỹ và nêu rõ rằng “Trung Quốc
không đơn giản tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch
chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm chiếm quần đảo” [32].
Do đó, Martin đã đề nghị Washington hãy cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy
mạnh các bước đi trong lĩnh vực ngoại giao.
Tuy
nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ muốn bảo vệ mối quan hệ với Trung Quốc hơn
là với một đồng minh đã hết thời. Các
nhà ngoại giao Mỹ tại Hội đồng Bảo an tỏ ra bi quan về việc đưa vấn đề ra Hội đồng
Bảo an bởi Trung Quốc là một thành viên thường trực của cơ quan này trong khi
VNCH chỉ là quan sát viên của LHQ nên không chấp nhận để VNCH đưa vần đề Hoàng
Sa ra Liên Hiệp Quốc.
Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc John A. Scali nhận
định rằng việc “đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an sẽ gây ra rắc rối rõ
ràng và nghiêm trọng cho chúng ta. Phía Việt Nam có vẻ như không có cơ hội đạt
được một quyết định thuận lợi từ Hội đồng Bảo an và có ít triển vọng đạt được bất
kỳ lợi thế nào” [33].
Do đó, John A. Scali cho rằng “tình thế của chúng ta sẽ cực kỳ bất tiện ngay cả
khi Việt Nam có quyền hợp pháp hiển nhiên với quần đảo tranh chấp. Trong tình cảnh
hiện tại, chúng ta sẽ tìm cách trì hoãn tiến trình của Hội đồng Bảo an. Điều
này sẽ giúp phái bộ VNCH có thời gian thăm dò trực tiếp các thành viên Hội đồng
Bảo an và báo cáo kết quả về cho Sài Gòn”. Rõ ràng, người Mỹ đã không tích cực ủng
hộ cho giải pháp ngoại giao của VNCH và còn trì hoãn nó. Thái độ này của Mỹ đã
làm cho con đường đấu tranh ngoại giao của VNCH gần như rơi vào bế tắc. Trước
những khó khăn đó, VNCH đã quyết định gửi thư đến Chủ tịch HĐBA Liên Hiệp Quốc
Facio rút lại yêu cầu về việc triệu tập cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an.
Ngày 25-1, Chủ tịch Facio thông báo Hội đồng Bảo an sẽ không nhóm họp để thảo
luận vấn đề Hoàng Sa bởi VNCH đã rút lại yêu cầu.
Nhận định về vấn đề này, Chủ tịch Facio cũng nhận
thấy rằng “Mỹ không thúc đẩy một cuộc họp của Hội đồng Bảo an và ông có cảm
giác Mỹ không thực sự muốn có cuộc họp[34].
Các hồ sơ ngoại giao của Mỹ được giải mật trong thời gian qua đã gợi ý rằng “Washington
đã chủ động bỏ rơi và gây sức ép buộc VNCH không được “manh động” trong vấn đề
Hoàng Sa”[35].
Đồng thời, Washington và các đồng minh đã cố gắng thuyết phục VNCH không đưa vấn
đề Hoàng Sa ra HĐBALHQ[36].
Dưới áp lực của Mĩ, VNCH đành phải từ bỏ ý định đưa vấn đề Hoàng Sa lên Liên Hiệp
Quốc. Nhận định về thái độ này của Mỹ, một đại diện ngoại giao Liên Xô tại Liên
Hiệp Quốc mô tả rằng Washington đang bối rối trong việc lựa chọn ủng hộ “đồng
minh cũ và người bạn mới” [37].
Như vậy, con đường đấu tranh bằng ngoại giao để buộc Trung Quốc dừng các hành động
xâm lược Việt Nam đã bị chính người Mỹ - đồng minh “hôm qua” của VNCH - phá hoại.
Kế hoạch
phản công bằng quân sự
Ngay sau khi Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, Ngoại
trưởng Vương Văn Bắc đã gặp Đại sứ Mỹ Graham Martin để thảo luận về “tình hình
rất nghiêm trọng” tại quần đảo Hoàng Sa. Theo đó, VNCH đang chuẩn bị đánh Trung
Quốc bằng không quân tại Hoàng Sa.
Sau khi giải pháp ngoại giao thất bại, ngày
14-2-1974, chính phủ VNCH đã ra Tuyên cáo và nêu rõ “Quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ VNCH. Chánh phủ và nhân
dân VNCH không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần
chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy[38].
Do đó, một kế hoạch phản công được chuẩn bị công phu với khả năng chiến thắng
là 100% đã được vạch ra. Theo đó, VNCH sẽ cho máy bay tấn công tàu Trung Quốc
vì “họ đi ra Hoàng Sa của mình là bằng tàu thôi, mình mà diệt hạm đội này là họ
cụt ngòi”. Máy bay sử dụng cho chiến dịch là loại F-5 và F-5E, loại có bình
xăng phụ[39]. Đây là loại máy bay
phát huy tốt trong điều kiện chiến đấu trên biển so với máy bay của Trung Quốc.
Theo phi công Nguyễn Thành Trung, máy bay của VNCH sẽ “cất cánh từ Đà Nẵng ra
Hoàng Sa, tụi tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng.
Cự ly từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng Không
quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay về. Thế
nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không có gì”[40].
Trong cuộc họp bàn phương thức tác chiến tại Đà Nẵng,
VNCH cũng xác định “có 40 tàu Trung Quốc đang có mặt tại Hoàng Sa. Do đó, nhiệm
vụ của các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi (Nguyễn Thành
Trung-ND) đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc
nào sống sót” [41]. Cũng theo Nguyễn
Thành Trung, việc tái chiếm Hoàng Sa là hoàn toàn khả thi vì với sức mạnh áp đảo
của không quân bao gồm 120 chiếc F-5 và F-5E đang chờ lệnh ở Đà Nẵng, mỗi
máy bay đủ sức không chiến tại Hoàng Sa trong 20 phút thì chỉ cần sau 1 ngày là
đánh chìm toàn bộ tàu Trung Quốc ở Hoàng Sa. Thế nhưng, kế hoạch này đã không
được thực hiện do những phản ứng từ phía Mỹ.
Ngày 25-1-1974 và ngày 31-1-1974, H.Kissinger đã
xác định “lập
trường của Mỹ là không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây và
Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở Hoàng Sa và Trường Sa”[42].
Đồng thời, Mỹ đã điều Hạm đội 7 Thái Bình Dương ra khỏi khu vực Hoàng Sa. Rõ ràng, lập trường này đã minh chứng cho sự
thay đổi trong chính sách đối với VNCH của Washington. Giải thích cho thái độ
này, Washington cho rằng “Quốc hội Mỹ đã ra luật cấm
Chính phủ tiếp tục hỗ trợ quân sự cho VNCH nên họ không thể nào giúp VNCH bảo
vệ Hoàng Sa trước sự tấn công của Trung Quốc[43].
Theo lời Nguyễn Thành Trung, việc này không được thực hiện do "Mỹ đã cảnh
báo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không được hành động"[44].
Lúc bấy giờ, Mỹ đã làm lành với Trung Quốc và chấp nhận làm ngơ để Trung Quốc
cưỡng chiếm Hoàng Sa. Do đó, cuộc phản công bằng không quân của VNCH đã không
diễn ra và Trung Quốc vẫn chiếm giữ trái phép Hoàng Sa của Việt Nam đến ngày
hôm nay.
Như vậy, qua biến cố lịch sử Hoàng Sa năm 1974,
chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là Mĩ đã “bỏ rơi” Hoàng Sa và chấp nhận
“làm ngơ” cho các hoạt động phi pháp của Trung Quốc tại đây. Không những thế,
Mỹ còn gây sức ép về ngoại giao và cản trở về quân sự để không cho VNCH phản
kháng lại đối với Trung Quốc. Sự kiện này đã minh chứng có sự bắt tay của Mỹ
với Trung Quốc. Người Mỹ đã “bán đứng” đồng minh cũ để đổi lấy đồng minh mới và
chính sự thực dụng này của Mỹ đã góp phần làm cho tình hình Biển Đông không ổn
định.
Trận gió mà Mỹ gieo năm 1974
đã bị Trung Quốc lợi dụng, thổi bùng lên thành cơn bão khiến Mỹ phải gặt 40
năm sau.
[1] Bửu Cẩm và những
người khác (1962), Hồng Đức bản đồ, Bộ
Giáo dục Quốc gia xuất bản, Sài Gòn, tr.94
[2] Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lúc, Lê Xuân Giáo dịch, Phụ
Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.210-212.
[3] Quốc Sử quán triều
Nguyễn, Đại Nam thực lục, Bản dịch của
Viện Sử học, tập 1, NXB KHXH, Hà Nội, 1991, tr.164.
[4] Nguyễn Đình Đầu
(2014), Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông
và Hoàng Sa-Trường Sa, NXB ĐHQG TPHCM, tr.9.
[5] Nguyễn Đình Đầu
(2014), sđd, tr.10.
[6] Nguyễn Đình Đầu
(2014), sđd, tr.10.
[7] (GDVN) - Thêm bằng chứng từ bộ Atlas thế giới, Bruxelles - 1827 khẳng
định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
[11] Nguyễn Đình Đầu
(2014), sđd, tr.14-15.
[12] Nguyễn Đình Đầu
(2014), sđd, tr.15.
[14] Nguồn:
http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Tuoi-Tre-Cuoi-tuan/1059668529,Mot-tai-lieu-quy-chung-minh-chu-quyen-cua-Viet-Nam-doi-voi-quan-dao-Hoang-Sa.ttm
[16] Monique Chemillier- Gendreau, Sovereignty over
Paracel and Spratly Islands, Kluwer Law International, 2000, 208, tr. 41.
[17] Yann Huei Song, china's "historic waters"in the south
china sea:an analysis from taiwan, American Asian Review Vol. 12, N.. 4,
Winter, 1994 (tr. 83-101)
[18] Daniel J. Dzurek, The Spratly Islands Dispute:Who's
On First? International Boundaries Research Unit, Volume 2 Number
1, tr. 14.
[20] Hải Chiến Hoàng Sa, Bão biển Đệ Nhị Hải Sư, tác giả xuất bản, Australia, 1989, trang
101.
[21] Châu Minh
Linh, Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa,
nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140105/hai-chien-hoang-sa-40-nam-nhin-lai-6-1-2014.aspx.
[22] Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông
chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, Báo Giáo dục Việt Nam.
[23] Châu Minh Linh, Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa, tlđd.
[24] Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông
chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, Báo Giáo dục Việt Nam.
[25] Tân Hoa Xã: Mao Trạch Đông
chỉ đạo đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, Báo Giáo dục Việt Nam.
[26] Châu Minh Linh, Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa, tlđd.
[27] Quan hệ Trung Việt
trước trận Hoàng Sa, Lý Hiểu Bình, BBC.
[28] Tuyên
cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19.1.1974, Thanh Niên Online (giới thiệu), Nguồn:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/hai-chien-hoang-sa-tuyen-cao-cua-bo-ngoai-giao-vnch-ngay-19-1-1974.aspx
[29] Quan hệ Trung Việt trước trận Hoàng Sa, Lý Hiểu Bình, BBC
[30] Tuyên
cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19.1.1974, Thanh Niên Online (giới thiệu), Nguồn:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/hai-chien-hoang-sa-tuyen-cao-cua-bo-ngoai-giao-vnch-ngay-19-1-1974.aspx
[31] Sơn Duân (2014),
Hoàng
Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Nguồn:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/ho-so-ngoai-giao-my-ve-hai-chien-hoang-sa-ky-2-hoang-sa-o-hoi-dong-bao-an-lhq.aspx.
[32] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd
[33] Sơn Duân (2014),
Hoàng
Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, tlđd.
[34] Sơn Duân (2014),
Hoàng
Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, tlđd.
[35] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, Nguồn:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140106/ho-so-ngoai-giao-my-ve-hai-chien-hoang-sa-ky-1-ban-co-nuoc-lon.aspx.
[36] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd.
[37] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd
[38] Tuyên cáo ngày 14.2.1974 của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Thanh
Niên online (giới thiệu), Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140108/hai-chien-hoang-sa-tuyen-cao-ngay-14-2-1974-cua-chinh-phu-viet-nam-cong-hoa.aspx.
[42] Sơn Duân (2014), Bàn cờ nước lớn, tlđd.
[43] Hoàng Sa: Góc nhìn từ dinh ông Thiệu, BBC online, 17 tháng 1, 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét