Bài đăng trong Sách chuyên khảo: Lịch sử Thế giới: Một cách
tiếp cận
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tháng 9.1940, Nhật Bản
chính thức xâm chiếm Việt Nam. Từ đó, nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị
của Pháp - Nhật. Sự thống trị tàn bạo của Nhật Bản đã làm cho hơn 2 triệu đồng
bào miền Bắc Việt Nam chết đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945. Vậy mục đích của
Nhật Bản khi nhảy vào Việt Nam là gì? Chính sách của Nhật Bản đối với Nam Kì
như thế nào? Hậu quả của những chính sách đó ra sao?
Nhiều nhà sử học cho rằng “việc buôn bán lương thực của Nhật Bản ở Việt
Nam (Đông Dương) - một nguyên nhân chủ yếu đưa tới nạn đói khủng khiếp này”[9,
364]. Không thể phủ nhận nguyên nhân của nạn đói năm 1944 – 1945 ở Việt Nam là
xuất phát từ chính sách bóc lột của đế quốc Pháp-Nhật. Đã 65 năm trôi qua, tội
ác của Nhật Bản vẫn còn đó. Chúng ta không nên cứ ôm mãi quá khứ nhưng cũng
không được phép quên quá khứ đau đớn này. Do đó, việc tìm hiểu, lý giải rõ
chính sách của Nhật Bản về vấn đề lương thực ở Nam Kì là điều cần thiết.
II. NỘI DUNG
1. Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương
Năm 1937, Nhật Bản mở rộng
cuộc chiến tranh xâm lược toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Từ năm 1939, Nhật Bản
cũng đẩy mạnh quá trình tiến xuống miền Nam châu Á. Tháng 2.1939, Nhật Bản chiếm
đảo Hải Nam (Trung Quốc) và chiếm luôn quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam) vào tháng
3.1939. Đây là bước khởi đầu cho quá trình mở rộng xâm lược xuống vùng Đông Nam
Á – đầu tiên là Đông Dương vì đây là một khu vực có vị trí rất quan trọng về
mặt chiến lược. Nếu chiếm được Đông Dương, Nhật Bản sẽ đạt được hai mục tiêu:
- Thứ nhất: Ngăn chặn sự
tiếp viện từ bên ngoài cho Trung Quốc bằng con đường từ Hải Phòng tới Côn Minh
và nếu có thể, dùng con đường này để xâm nhập miền Nam Trung Quốc.
- Thứ hai: Nhật Bản có thể
loại bỏ tất cả các cường quốc phương Tây ra khỏi thuộc địa của họ ở Đông Nam Á
để thiết lập “Khu thịnh vượng chung Đại Đông Á”[1, 225].
Như vậy, việc chiếm được
Đông Dương sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc thôn tính toàn bộ Trung Quốc
cũng như để thực hiện kế hoạch thiết lập “Khu thịnh vượng chung Đại Đông Á” là
một vùng rộng lớn “bao gồm Đông Dương và
Indonesia (quần đảo Nam Dương-ND)
thuộc Hà Lan” [7, 137] của Nhật Bản.
Để thực hiện kế hoạch này,
ngày 1.8.1940, Bộ Tham mưu Hải quân Nhật Bản công bố tài liệu “Nghiên cứu những chính sách đối với Đông
Dương” đã nêu lên 3 điều khiến Nhật Bản phải nhanh tay làm chủ Đông Dương:
- Làm căn cứ tiến hành đánh
chiếm Miến Điện và Mã Lai.
- Đóng giữ Cam Ranh – cảng
quân sự vào loại tốt nhất thế giới, nằm giữa đường đi Singapore đến Hồng Kông
và cũng có vị trí như vậy từ Biển Đông đến Bangkok, đến Manila, đến các cảng ở
Sarawak và Bắc Borneo.
- Thuận lợi cho việc tập
trung quân nhanh chóng chuyển đến mặt trận Thái Bình Dương một khi chiến tranh
nổ ra [9, 367-368].
Nhằm đẩy nhanh hơn tiến
trình xâm chiếm toàn bộ Đông Nam Á, ngày 2.8.1940 Nhật gởi cho Toàn quyền Đông
Dương – Đô đốc Jean Decoux một yêu cầu tối thiểu về việc di chuyển những nhóm
người Nhật ở Bắc Đông Dương và tự do về bầu trời hàng không.
Ngày 30.8.1940, Đại diện
cho chính phủ Vichy ở Nhật là Arsène Henry và Matsouka – Bộ trưởng Ngoại giao
của Nhật đã ký kết Hiệp ước về việc bảo vệ chủ quyền Pháp ở Đông Dương với nội
dung:
- Chính phủ Nhật cam kết
tôn trọng và nhìn nhận chủ quyền của Pháp trên toàn cõi Đông Dương.
- Chính phủ Pháp chấp nhận
cho quân đội Nhật tạm đóng ở Bắc Kỳ để sớm giải quyết vấn đề Trung Quốc.
- Hai bộ tư lệnh Pháp và
Nhật họp tại Hà Nội sẽ ký một thỏa ước quân sự ấn định thể thức thi hành thỏa
hiệp chính trị [1].
Hiệp ước này đã đánh dấu sự
nhượng bộ của thực dân Pháp trước Nhật Bản và cũng mở đầu cho quá trình hợp tác
Pháp-Nhật tại Đông Dương. Sở dĩ chính quyền Vichy chấp nhận điều kiện đó của
Nhật vì Đông Dương là cửa sổ bên ngoài của chính phủ Tưởng
Giới Thạch khi rút về Trùng Khánh, là chiếc chìa khóa chiến lược để đi vào toàn
bộ vùng Đông Nam Á […]. Sự riệu rã đột ngột của chế độ thực
dân Pháp do sự sụp đổ về quân sự và chính trị vào tháng 6.1940 ở chính quốc [3,
51].
Trong khi đó, ở Đông Dương,
Jean Decoux vẫn kiên quyết không chấp nhận những yêu cầu của Nhật Bản với lý
do: chưa nhận được chỉ thị từ chính phủ Vichy. Trước sự cứng rắn của Toàn quyền
Decoux, đúng 23 giờ ngày 22.9.1940, quân Nhật từ miền Nam Trung Quốc tấn công
vào các đồn binh Pháp ở Bắc Kỳ. Quá thất vọng trước sự lưỡng lự của Pháp cho họ
tự do đi qua thuộc địa, những chỉ huy địa phương của Nhật đã nhanh chóng xua
quân tràn vào hai đồn binh ở Lạng Sơn và Đồng Đăng đánh bại lực lượng hỗn hợp
Pháp – Việt trong vài trận đánh ác liệt nhất mà quân Nhật tham gia tại Việt Nam.
Sự thất thủ của Đồng Đăng và Lạng Sơn đã cho chính quyền Pháp cả ở thuộc địa và
lẫn chính quốc thấy rằng, bất chấp những tuyên bố mạnh miệng, họ vẫn không thể
chống lại sức mạnh của quân Nhật. Cộng tác và thỏa hiệp là lựa chọn thực tế duy
nhất nếu Pháp muốn duy trì quyền kiểm soát Đông Dương [5, 49]. Sự kiện này được
Hồ Chí Minh giải thích như sau: “Người
Nhật trở thành chủ nhân đích thực. Người Pháp trở thành một dạng nô lệ được tôn
trọng. Và người dân Đông Dương phải chịu cảnh một cổ hai tròng – làm nô lệ
không chỉ cho người Nhật mà còn là nô lệ của nô lệ”[5, 51].
Như vậy, sau thắng lợi ở
Lạng Sơn, Đồng Đăng, phát xít Nhật đã chính thức nhảy vào Đông Dương. Từ đây,
nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ
hai tròng” dưới sự thống trị của
Pháp - Nhật. Mục tiêu thật sự của Nhật khi nhảy vào Đông Dương là gì?
2. Vấn đề lương thực trong chính sách
của Nhật ở Nam Kì từ 1941 – 1945
Trong quá trình xâm lược
xuống Đông Nam Á, nỗi bận tâm lớn nhất của giới cầm quyền Nhật Bản chính là
nguồn lương thực để phục vụ cho chiến tranh. Ngay sau khi độc chiếm Việt Nam,
Nhật thực hiện triệt để chính sách “lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, nhằm cướp đoạt đến cùng sức người, sức của, của nhân
dân ta trên tất cả các hoạt động kinh tế xã hội” [10, 357] để phục vụ cho các
hoạt động quân sự của họ.
Tháng 1.1941, Nhật Bản yêu
cầu Toàn quyền Decoux ký thỏa thuận: “xuất
100 tấn gạo từ Sài Gòn sang Nhật và trong 1 năm vận chuyển 1 triệu tấn gạo cho
quân đội Nhật, bao gồm số gạo cung cấp cho hàng chục vạn quân Nhật đang đóng ở
Đông Dương”[13, 178].
Tháng 7.1941, Hiệp định mới
“Hoạch định phòng thủ chung Đông Dương”
(Darlan-Kato) được ký kết. Theo đó, Pháp cho Nhật được quyền đóng quân và sử
dụng các căn cứ, các hệ thống giao thông tại phía Nam Đông Dương, từ đó, vài tháng
sau họ sẽ hành quân chống lại đế quốc Anh [11, 35]. Để thực hiện kế hoạch này, Tư
lệnh Trưởng quân đội Nhật Bản – Terauchi kéo quân vào Nam Việt Nam mà không gặp
phải kháng cự nào. Đến tháng 11.1941, đã có khoảng 80.000 quân Nhật (trong tổng
số 100.000 quân Nhật ở cả Bắc và Nam Kì) ở vùng này [13,179]. Rõ ràng, việc có
đến 80% quân đội Nhật ở Việt Nam đóng tại Nam Kì đã nói lên được vai trò quan
trọng của khu vực này trong chính sách của Nhật Bản.
Ngay khi vào miền Nam, “quân
đội Nhật giành quyền kiểm soát các sân bay và hải cảng, bao gồm khu vực xung
quanh vịnh Cam Ranh và các sân bay quanh Sài Gòn. Nhật sử dụng căn cứ Đông
Dương để hậu thuẫn cho cuộc tấn công mở rộng Đế chế Mặt Trời mọc xuống Đông Nam
Á” [5, 50].
Như vậy, từ năm 1941, Nam Kì
trở thành căn cứ xuất phát của quân Nhật đi đánh chiếm xuống vùng Đông Nam Á.
Để đảm bảo cho thắng lợi quân sự, Nhật Bản đã đẩy mạnh việc buộc thực dân Pháp
phải cung cấp nguồn lương thực cho quân Nhật. Gạo Việt Nam được sử dụng để nuôi
quân Nhật và xuất khẩu sang đảo quốc này. Gạo và ngô còn được dùng để chưng cất
thành cồn bù vào sự thiếu hụt xăng dầu [5, 53].
Tác giả Futura Motoo cũng
cho rằng “tài nguyên quan trọng nhất mà
Nhật trông đợi ở Đông Dương là gạo, việc nhập khẩu gạo từ Đông Dương sang nước
Nhật trong tổng lượng nhập khẩu năm 1940 là 25,9%, năm 1941 là 25,2%, năm 1942
là 37%, năm 1943 là 56,3% và chiếm tỉ lệ cao nhất trong thời kì có thể vận
chuyển bằng tàu biển […]. Gạo Đông Dương được cấp thêm cả cho quân đội Nhật
triển khai ở khu vực thiếu lương thực” [6, 117]. Do đó, nguồn lương thực
của Việt Nam là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc xâm lược cũng như sự tồn
tại của Nhật Bản.
Ngày 9.12.1941, Pháp – Nhật
đã ký kết “Hiệp ước phòng thủ chung”, thừa
nhận sự chiếm đóng của Nhật trên toàn Đông Dương” […]. Riêng về gạo, Pháp phải
nộp cho Nhật năm 1941 là 585.000 tấn, năm 1942 là 973.000 tấn, năm 1943 là
1.023.000 tấn, năm 1944 là 900.000 tấn [13, 177]. Những chính sách này của
Nhật đã được cụ thể thành các hiệp định sau:
- Hiệp định ngày 18.7.1942
(được ký kết tại Sài Gòn): Theo đó, “chính phủ Liên bang Đông Dương cam kết
giao cho chính phủ Nhật Bản 1.050.000 tấn gạo và tấm trước ngày 31.10.1942 và
45.000 tấn bột gạo trắng vào trước ngày 31.12.1942. […] nhưng không bao gồm số
dư nợ của đợt giao 30.000 tấn dự kiến vào tháng 12.1941, được mang sang tháng 1.1942
lên tới khoảng 24.000 tấn. Như vậy, số gạo xuất cho Nhật trong năm 1942 sẽ là
1.074.000 tấn” [15, 585].
-
Hiệp định ngày 25.1.1943 với nội dung: “chính phủ Đông Dương
cam kết giao nộp cho chính phủ Nhật Bản 1.050.000 tấn gạo và tấm cùng 66.000 tấn
bột gạo trắng trước ngày 31.12. Số kết toán của hạn mức gạo, tấm phải nộp năm
1942 chưa nộp tính đến 31.12.1942 lên đến 75.904 tấn phải được giao nộp vào năm
1943, không nằm trong hạn mức 1.050.000 tấn”. Như vậy, khối lượng toàn bộ số
gạo và tấm phải xuất lên đến 1.125.904 tấn [15, 586].
-
Hiệp định ngày 5.1.1944 (được ký tại Sài Gòn) bao gồm các điều
khoản chủ yếu: “chính phủ Đông Dương cam kết giao nộp cho chính phủ Nhật
900.000 tấn gạo và tấm. Tuy nhiên, chính phủ Đông Dương cam kết sẽ giao tối
thiểu một khối lượng gạo 585.000 tấn gồm các loại 1-2-3 (tức loại 25%, 40% và
50% tấm) và một khối lượng tối đa gồm: 135.000 tấn gạo trắng có chất lượng bằng
hay hơn loại gạo tròn và dài 20% tấm; 135.000 tấn gạo cargo (gạo không đóng
bao); 45.000 tấn tấm” [15, 587].
Như vậy, lương thực của
Đông Dương chiếm giữ một vai trò rất quan trọng trong chính sách xâm lược, mở
rộng lãnh thổ của Nhật Bản. Gạo của Việt Nam không chỉ cung cấp cho quân đội mà
còn cung cấp cho cả nước Nhật. Tuy nhiên, đây là số lượng gạo quá lớn so với
sức cung cấp của Đông Dương. Do đó, thường thực dân Pháp không cung cấp đủ số
lượng cho Nhật. Theo Đào Phiếu, số lượng gạo Việt Nam cung cấp cho Nhật như
sau:
Năm
|
Tổng số yêu cầu (tấn)
|
Tổng số xuất cảng cho Nhật (tấn)
|
1940
|
Không rõ
|
408.000 tấn
|
1941
|
700. 000 tấn
|
585. 000 tấn
|
1942
|
1.074. 000 tấn
|
973. 000 tấn
|
1943
|
1.125. 000 tấn
|
1.023.471 tấn
|
1944
|
900. 000 tấn
|
498.525 tấn
|
1945
|
Không rõ
|
44.807 tấn
|
Nguồn: [10, 359].
Theo bảng số liệu trên, năm
1941, số lượng gạo Việt Nam cung cấp cho Nhật đạt 83,6%; năm 1942 đạt 90,6%;
năm 1943 đạt 90,9%; năm 1944 đạt 55,4%. Rõ ràng, số lượng gạo Việt Nam cung cấp
cho Nhật nhiều nhất là hai năm 1942, 1943. Sang năm 1944, tình hình mặt trận
Thái Bình Dương có nhiều thay đổi, con đường vận chuyển trên biển của Nhật bị
cắt đứt. Do đó, số lượng gạo xuất sang Nhật bị giảm sút đáng kể.
Cùng với gạo, ngô là nguồn
lương thực quan trọng cũng bắt buộc phải xuất khẩu sang Nhật Bản:
Năm 1941, xuất cảng 124.923
tấn
Năm 1942, xuất cảng 98.700
tấn (chiếm 46% tổng sản lượng của Việt Nam)
Năm 1944, xuất cảng 18.263
tấn (chiếm 45% tổng sản lượng của Việt Nam)
Năm 1945, xuất cảng 12.134
tấn (chiếm 9% tổng sản lượng của Việt Nam)[10, 360]. Vậy là, gạo đã bị đem đi
xuất khẩu, nhân dân Việt Nam ăn không đủ no, nay lại phải xuất khẩu ngô. Do đó,
đời sống nhân ngày càng thêm cơ cực.
Bên cạnh gạo, ngô, Nhật Bản
còn tăng cường vơ vét các loại ngũ cốc. Đông Dương cũng là nơi cung cấp ngũ cốc
chính cho Nhật. Trong những năm 1940 – 1945, Đông Dương xuất khẩu sang Nhật một
lượng ngũ cốc (ngoài gạo) như sau:
- Năm 1940: 149.000 tấn
(chiếm 55,4% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1941: 135.000 tấn
(chiếm 50,6% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1942: 125.000 tấn
(chiếm 15,2% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1943: 634.000 tấn
(chiếm 84,5% số ngũ cốc nhập vào Nhật)
- Năm 1944: 335.000 tấn (chiếm
70,0% số ngũ cốc nhập vào Nhật)[9, 379].
Rõ ràng, Đông Dương nói
chung và Việt Nam nói riêng là nguồn cung cấp lương thực quan trọng nhất cho
Nhật Bản. Số lượng gạo của Việt Nam nhập vào Nhật Bản chiếm đến 56,3% và 84,5% số lượng ngũ cốc nhập vào Nhật năm 1943 là
minh chứng rõ ràng nhất về vị trí của Việt Nam trong việc cung cấp lương thực
cho Nhật. Do đó, việc Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương không phải chủ yếu từ mục
tiêu chính trị là ngăn chặn tiếp tế từ bên ngoài cho Trung Quốc mà là do nguồn
cung cấp lương thực của Đông Dương cho Nhật trong cuộc tồn tại và xâm lược của
họ. Những hiệp định đã được ký kết giữa Nhật với Pháp cùng những số liệu về
việc cung cấp lương thực cho Nhật đã chứng minh mục tiêu của Nhật khi xâm chiếm
Đông Dương. Vậy hậu quả của chính sách lương thực của Nhật như thế nào?
3. Hậu quả chính sách lương thực của
Nhật Bản
Việc Nhật buộc chính phủ
Pháp ở Đông Dương cung cấp lương thực với một số lượng lớn như trên đã gây ra
những hậu quả vô cùng to lớn đối với nhân dân Việt Nam.
Thứ nhất: Pháp cũng gặp rất nhiều khó khăn
trong việc cung cấp cho Nhật. Báo cáo Mật của Sở Mễ cốc ngày 22.4.1942
đã nêu: “(…) Theo quy định, từ nay đến
ngày 31.5, Sở Mễ cốc phải nộp cho hãng Mitsui Bussan Kaisha trung bình mỗi
tháng 120.000 tấn gạo. Thế nhưng hiện nay Sở Mễ cốc chỉ có thể cung ứng 100.000
tấn gạo và tấm mà thôi. (…)”[13, 153].
Hoặc Báo cáo của Sở Mễ cốc ngày
4.5.1942 “ (…), như vậy tổng cộng
từ tháng 1 đến tháng 5.1942 (Pháp phải nộp cho Nhật-ND) là 490.000 tấn. Tính đến nay, Sở Mễ cốc đã
nộp cho hãng này (Mitsui Bussan Kaisha) 379.000
tấn. Như vậy, trong tháng 5 còn phải nộp tiếp cho Nhật 109.724 tấn gạo và tấm”
[13, 164]. Rõ ràng, thực dân Pháp không có đủ lượng gạo cần thiết để cung cấp
cho Nhật. Tuy nhiên, vì mục tiêu chính trị nên Sở Mễ cốc phải ra sức thu mua
lúa trong nhân dân để đảm bảo cung cấp cho Nhật. Báo cáo của Chủ tỉnh Gò Công ngày
9.5.1942 đã nêu “(…) Tôi đã ra lệnh cho các chủ vựa khác phải bán gấp
số lúa của họ trong thời gian ngắn nhất. Các chánh tổng cũng đã được lệnh phải
đích thân đến các vựa lúa để kiểm tra và đốc thúc các chủ vựa bán ngay số lúa
đã được quy định” [13, 155].
Hoặc Báo cáo của chủ tỉnh Rạch Giá ngày
14.5.1942 viết: “(…) Sau cuộc họp từ ngày 5-5 ở Sài Gòn trở về, tôi đã
ra lệnh khẩn cấp cho các tổng, xã trong tỉnh buộc các điền chủ phải bán lúa của
họ cho nhà nước với khối lượng lớn và trong một thời hạn khẩn cấp”[13, 156].
Như vậy, thực dân Pháp đã
dùng mọi biện pháp để bắt nhân dân ta bán lúa, gạo cho họ để đủ cung cấp theo
yêu cầu của Nhật. Thậm chí, để thắt chặt thị trường lúa gạo, Toàn quyền Đông
Dương còn ban hành các Nghị định ngày 12.3.1942 và 31.3.1943 quy định: “những người có hai tấn lúa và 1 tấn gạo trở
lên đều phải khai báo và bán lại cho chính quyền thông qua Thương cục Gạo và
Bắp” [12,192]
Nghị định của Thống đốc Nam
Kì ký ngày 17.4.1943 quy định rõ “ai có 4 tạ thóc hay 2 tạ gạo đều phải khai
báo và bán cho nhà nước thấp hơn giá thị trường 1 đồng/tạ” [10, 361]
Ngày 17.4.1944, thay mặt
Thống đốc Nam Kì, Thanh tra Vụ Chính trị và hành chính Dufour ký “Nghị định
khẩn” gồm 7 điều. Theo đó quy định:
Điều 1: Trên toàn lãnh thổ
Nam Kỳ (ngoại trừ vùng Sài Gòn – Chợ Lớn) yêu cầu tất cả những người hiện đang
chứa trữ lúa gạo và tấm (gồm điền chủ, nông gia, chủ ghe bầu, người vận chuyển,
người bán lúa, chủ nhà máy xay, người xuất khẩu) phải khai báo trong ngày 5.5.1944,
hạn chót trước 16 giờ. […][13, 161-162].
Có thể nói, chính quyền
Đông Dương đã thực hiện mọi biện pháp khắc nghiệt để tận thu lúa gạo trong nhân
dân, thương buôn, điền chủ…Tuy nhiên, Pháp vẫn không thỏa mãn được yêu cầu của
Nhật. Thông tri ngày 21.9.1942, Thống đốc Nam Kỳ Rivoal viết: “Trên thực tế, con số dự kiến 800.000 tấn nộp
cho Nhật đã là một dự kiến sai lầm. Thế mà phía người Nhật vẫn cho rằng chúng
ta thiếu thiện chí và thành thật, và họ đã tăng lên 1.050.000 tấn, ép buộc
chúng ta phải chấp thuận”… [13, 158].
Bên cạnh những biện pháp ép
buộc các nhà nông, điền chủ, chủ vựa lúa gạo…phải khai báo và bán theo quy định
của nhà nước, thực dân Pháp còn quy định giá mua thấp hơn rất nhiều so với giá
cả thị trường. “Năm 1943, giá gạo chính
thức do chính quyền thuộc địa ấn định có 26 đồng/tạ (100kg), trong khi giá thị
trường lên đến 57 đồng. Rồi tới năm 1944, giá chính thức thu mua vẫn không tăng
nhưng giá thị trường lên đến 350 đồng – 400 đồng/tạ…” [14, 402].
Như vậy, chính sách vơ vét,
bóc lột lương thực của Nhật đã gây nhiều khó khăn cho thực dân Pháp ở Đông
Dương. Tuy nhiên, xét cho cùng, chính nhân dân Việt Nam là đối tượng gánh chịu
tất cả những khó khăn đó.
Thứ hai: chính sách trên của Nhật đã tạo nên
cơn sốt giá cả trầm trọng ở Việt Nam vào những năm 1944-1945. Trong suốt thời
gian bị quân Nhật chiếm đóng, giá cả một số sản phẩm cần thiết tăng lên kinh
khủng, làm phát sinh nạn chợ đen, khiến cho những người có thu nhập thấp không
thể nào với tới hàng hoá.
Cho đến giữa tháng 5.1942,
khắp các tỉnh Nam Kì giá thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác tăng trung bình từ
10% đến 30%, có lúc lên đến 70%. Theo báo cáo của chủ tỉnh Sa Đéc (tháng
5.1942), giá thực phẩm của tỉnh so với cùng kì năm 1941 tăng ít nhất 11% và cao
nhất là 77% như: Cá khô tăng 11%; Các loại rau tăng 35%; Hàng tiêu dùng tăng
47%; Gà vịt tăng 77%... Trong khi đó, giá cả ở Long Xuyên cùng kì (5.1942) cũng
tăng lên đáng kể như: gạo tăng 20%; rau tăng 30%; nước đá tăng 60%..[13, 253-254].
Sự gia tăng nhanh chóng giá
cả các mặt hàng thực phẩm thiết yếu đã tác động rất lớn đến đời sống của nhân
dân ta. Tình hình này ngày càng tội tệ hơn vào vụ mùa năm 1944 – 1945. Trong
giai đoạn này, từ Nam đến Bắc Việt Nam, hầu như gia đình nào cũng bị đói. Chi
phí sinh hoạt tại Sài Gòn tăng lên 450%, tại Hà Nội, chi phí sinh hoạt tăng lên
đến 2000% [4, 135].
Trong khi đó, chính quyền
Pháp còn tung ra lượng tiền giấy ngày càng nhiều để làm đòn bẩy trong quan hệ
làm ăn với Nhật, vừa trả chi phí để duy trì quân đội Nhật tại Đông Dương, vừa
trả lương cho công chức và binh lính. Kết quả, lượng tiền lưu thông tăng từ 180
triệu đồng vào năm 1939 lên đến 1tỷ 364 triệu đồng vào năm 1944 [14, 402-403]. Tình
hình này làm cho nạn lạm phát tăng cao và làm cho đời sống nhân dân ngày càng
cơ cực nhiều hơn.
Thứ ba: chính sách thu mua lương thực cưỡng
bức với giá rẽ mạt, bắt nhân dân nhổ lúa, trồng đay phục vụ chiến tranh…là
nguyên nhân gây nên nạn đói năm 1945 ở Việt Nam.
Toàn bộ số gạo mà Nhật mua
của Việt Nam với giá quy định thấp hơn thị trường rất nhiều. “Tháng 7.1945, giá chính thức thu mua do Nhật
ấn định là 55 đồng/tạ, thì giá thị trường là 700 – 800 đồng/tạ” [14, 402].
Như vậy, giá lúa Nhật thu mua chưa bằng 1/12 giá thị trường. Trong khi đó, nhân
dân nghèo muốn có “cơm ăn” phải mua lại với giá đắt gấp 12 lần.
Trong khi đó, than đá từ
miền Bắc không chở vào Nam được để cho các nhà máy hoạt động. Do đó, gạo, ngô
đã được dùng đốt thay cho than đá. Ngược lại, gạo của Nam Kì cũng không thể chở
ra Bắc Kì được. Số lượng gạo chuyển từ Nam ra Bắc đã bị giảm sút nghiêm trọng. Năm 1941
là 185.620 tấn; năm 1942 là 126.670 tấn; năm 1943 là 29.200 tấn; năm 1944 là 6.830
tấn [10, 357]. Rõ ràng, số lượng gạo vận chuyển ra miền Bắc trong năm 1944 chỉ
bằng 3% so với năm 1941. Hệ quả tất yếu là trong những tháng đầu năm 1945, hàng
trăm ngàn người lang thang, ăn xin và chết đói khắp các vùng quê miền Bắc và
Miền Trung Việt Nam.
Mặt khác, để giải quyết tình hình khó khăn về nguồn nhiên liệu phục vụ cho
sinh hoạt và chiến tranh, chính phủ Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay,
trồng thầu dầu. Ngày 22.1.1945, Thống đốc Nam Kì gởi các chủ tỉnh Cần Thơ, Châu
Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc một công văn mật:
“[…] Phái bộ Nhật yêu cầu Phủ Toàn
quyền cho phép hãng Memka KK và hãng Mitsui Bussan Kaisha được lĩnh thầu việc
trồng đay ở miền Nam Đông Dương. Riêng Nam Kì, người Nhật yêu cầu 1.400ha diện
tích trồng đay phân cho:
- Tokyo Menka KK: 700 ha ở Châu Đốc
- Mitsui Bussan Kaisha: 300 ha ở Long Xuyên ; 300 ha ở Sa Đéc
100 ha ở Cần Thơ [13, 199]
Nếu tính trung bình mỗi
hecta thu hoạch 1,3 tấn thóc thì Nam Kì đã mất đi hết: 1400 x 1,3 tấn = 1.820
tấn thóc. Nếu trung bình mỗi người tiêu thụ tối thiểu 120kg thì phải có hơn
15.000 người không có gì ăn.
Ngoài ra, Nhật còn lấy đất
ruộng để trồng cây có dầu, lấy dầu trộn với dầu cá, dầu dừa, dầu đậu phọng để
làm dầu máy. Tính đến cuối năm 1944, diện tích đất bị Nhật chiếm để trồng đay,
thầu dầu là 131.700 hecta [14, 400]. Như vậy, cuối năm 1944, số thóc bị mất
trắng khoảng: 131.700 x 1,3 tấn = 171.210 tấn, tương đương gần 1,5 triệu người
không có gì ăn.
Tóm lại, chính sách cưỡng
bức thu mua lương thực với giá rẻ mạt của Nhật Bản cùng với tình trạng lạm phát
tăng cao, giá cả thị trường đặt đỏ, nhân dân mất đất trồng cây công nghiệp phục
vụ chiến tranh…đã gây nên nạn đói trầm trọng cho nhân dân Việt Nam cuối năm
1944 – đầu năm 1945.
KẾT LUẬN
Tháng 9.1940, Nhật Bản
chính thức xâm chiếm Việt Nam. Nhìn bên ngoài, Nhật chiếm Đông Dương vì đây là
khu vực có vị trí chiến lược để Nhật xâm nhập vào Trung Quốc từ phía Nam và là
căn cứ để quân Nhật xuất phát đi đánh chiếm xuống vùng Đông Nam Á. Nhưng thực
chất, Nhật Bản quan tâm nhiều hơn chính là nguồn lương thực của Việt Nam. Từ
năm 1940- 1945, Nhật Bản ra sức ép thực dân Pháp phải cung cấp cho họ một số
lượng khổng lồ về gạo, ngũ cốc (đỉnh cao là năm 1943) để cung cấp cho chính
quốc lẫn quân đội để xâm chiếm xuống vùng Đông Nam Á, thiết lập khu Thịnh vượng
chung Đại Đông Á.
Mặt khác, Nhật còn buộc
nhân dân ta phải nhổ lúa trồng đay, thầu dầu để phục vụ cho chiến tranh. Hậu
quả, Pháp ra sức vơ vét, bóc lột tàn nhẫn nhân dân ta để đủ lương thực cung cấp
cho Nhật. Nhân dân đã đói khổ lại phải mất đất để trồng cây công nghiệp, giá cả
sinh hoạt đắt đỏ, lạm phát tăng cao… Do đó, đời sống nhân dân ta vô cùng cơ
cực. Hậu quả nặng nề là hơn 2 triệu đồng bào miền Bắc bị chết đói cuối năm 1944
đầu năm 1945. Do đó, có thể kết luận là “vấn
đề lương thực của Nhật Bản ở Nam Kì là một trong những nguyên nhân để Nhật nhảy
vào Việt Nam và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nhân dân Việt Nam”.
TÓM TẮT
Tháng 9.1940, Nhật Bản
chính thức xâm chiếm và thống trị Việt Nam. Mục tiêu quan trọng của họ khi
chiếm Việt Nam vì Việt Nam là “cửa ngỏ
xâm chiếm Trung Quốc từ phía Nam và là nơi cung cấp lương thực (gạo, ngũ cốc, cây
công nghiệp) cho chính quốc lẫn đội quân xâm lược của họ”. Do đó, từ 1940 –
1945, Nhật ép buộc Pháp cung cấp số lượng lớn lương thực và ra sức bóc lột tàn
nhẫn nhân dân Việt Nam. Đối với Nam Kì, Nhật Bản vừa vơ vét lúa gạo, thu mua
với giá rẻ mạt, bắt nhân dân Nam Kì trồng cây công nghiệp phục vụ chiến
tranh…làm cho đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, đói khổ. Mặt khác, lúa gạo Nam
Kì không vận chuyển ra Bắc được đã gây ra nạn đói trầm trọng cho nhân dân Việt
Nam năm 1945.
ABSTRACT
In September 1940, jump on
the official Japanese invaded and ruled Vietnam. The important goal of
accounting for them when Vietnam is the "gateway
invaded China from the South and is a major supplier of food (rice, cereals,
industrial crops) for the country and their army of invaders". Thus,
from 1940 - 1945, Japan forced the French to provide large quantities of food
and strive ruthlessly exploited the people of Vietnam. For the Southern Vietnam,
Japan has rice plunder, and buying the cheap price, by the people of South Vietnam
growing industrial war service ... make people's life extremely hard, hungry.
On the other hand, Rice Southern Vietnam were not transported to the North has
caused severe famine for the people of Vietnam in 1945.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Anh (1974), Việt
Nam dưới thời Pháp đô hộ, Bộ VHGD và Thanh Niên, Sài Gòn.
2. Lý Hiệp Bình, Việt
Nam dưới thời kì quân đội Nhật chiếm đóng, Tia Sáng Nhật báo, ngày
13.9.1968.
3. Daniel Hémery (2005), Hồ
Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam, Lê Toan biên dịch, NXB Phụ Nữ.
4. David C. Marr (1980), “World
War II and the Vietnamese Revolution” in Southeast Asia under Japanese
Occupation, Alfred W. McCoy [Ed], New Haven
5. Dixee R. Bartholomew-Feis
(2008), OSS và Hồ Chí Minh, Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, Lương Lê
Giang dịch, NXB Thế Giới- Công ty Văn hóa và Truyền thông Võ Thị.
6. Futura Motoo (1998),
Việt Nam trong lịch sử thế giới¸ Nguyễn Văn Nguyệt dịch, NXB CTQG, HN.
7. Lê Đình Hà (2006), Cuộc
đời Nhật Hoàng Hiro Hito, NXB Thanh Niên.
8. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ
cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 – 1945), NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
9. Phan Ngọc Liên(2001), “Chiến
lược cung cấp lương thực” của Nhật trong thời kì chiếm đóng Việt Nam – Một
trong những nguyên nhân gây ra nạn đói 1944 – 1945 trong Chứng tích
Pháp – Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1858 – 1945, NXB Trẻ.
10. Đào Phiếu (2001), Chứng
tích chiến tranh xâm lược của phát xít Nhật ở Việt Nam trong Chứng tích
Pháp – Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1858 – 1945, NXB Trẻ.
11. Philipe Devillers
(2003), Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Hoàng Hữu Đảm dịch, NXB Tổng hợp TP HCM.
12. Nguyễn Phan Quang
(2004), Thị trường lúa gạo Nam Kỳ (1860
- 1945), NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí
Minh.
13. Nguyễn Phan Quang (1998), Góp thêm tư liệu Sài Gòn – Gia Định từ 1859
– 1945, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
14. BS. Ngô Văn Quỹ (2001), Sinh mệnh hai triệu nông dân Bắc Kì và nạn
đói 1945 – Kết quả sự đầu hàng nhục nhã của Pháp trong Chứng tích Pháp
– Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam 1858 – 1945, NXB Trẻ.
15. Văn Tạo - Furuta Motoo (1995), Nạn
đói năm 1945 ở Việt Nam:những chứng tích lịch sử,
Viện sử học Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét