Bài phổ biến
25/11/20
28/10/20
5/9/20
Nhật đầu hàng: Vì Stalin, không phải bom nguyên tử
Nhật đầu hàng: Vì Stalin, không phải bom nguyên tử (Phần 1)Nguồn: Ward Wilson, “The Bomb Didn’t Beat Japan… Stalin Did”, Foreign Policy, 30/5/2013. Phải chăng 70 năm chính sách về vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đã dựa trên một lời nói dối? Việc Hoa Kỳ sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Nhật Bản trong Thế Chiến II từ lâu đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận cảm tính. Ban đầu, ít ai đặt ra nghi vấn về quyết định của Tổng thống Truman là thả hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Nhưng vào năm 1965, nhà sử học Gar Alperovitz đã lập luận rằng mặc dù bom nguyên tử đã trực tiếp chấm dứt chiến tranh, song giới lãnh đạo Nhật Bản dù gì cũng đã muốn đầu hàng và có thể đã đầu hàng trước khi cuộc đổ bộ của Mỹ dự kiến vào ngày 1 tháng 11 năm 1945 diễn ra. Do vậy, việc sử dụng bom nguyên tử là không cần thiết. Rõ ràng là nếu việc thả bom là không cần thiết để giành chiến thắng thì việc ném bom xuống Hiroshima và Nagasaki là sai lầm. Trong 48 năm sau đó, rất nhiều người đã tham gia vào cuộc tranh cãi: một số người ủng hộ Alperovitz và lên án vụ ném bom, những người khác lại phản bác nảy lửa và cho rằng những vụ ném bom là cần thiết, hợp đạo đức, và giúp cứu mạng rất nhiều người. Tuy nhiên, cả hai dòng tư tưởng đều giả định rằng việc ném xuống Hiroshima và Nagasaki loại vũ khí mới và uy lực hơn đã buộc Nhật Bản phải đầu hàng vào ngày 9 tháng 8 năm 1945. Cả hai dòng tư tưởng đều đã không chất vấn tính hữu ích của việc ném bom ngay từ đầu – về căn bản là hỏi rằng liệu việc đó có hiệu quả không? Quan điểm chính thống là có, tất nhiên là đã có tác dụng. Hoa Kỳ đã ném bom Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 và Nagasaki vào ngày 9 tháng 8, khi đó Nhật Bản cuối cùng đã chịu khuất phục trước đe dọa tiếp tục bị ném bom hạt nhân và đầu hàng. Luận điểm này được ủng hộ vô cùng mạnh mẽ. Nhưng nó có ba vấn đế lớn, và khi tổng hợp lại thì cả ba sẽ làm giảm đáng kể tính thuyết phục của cách diễn giải truyền thống cho sự đầu hàng của Nhật Bản. Vấn đề thời gian Vấn đề đầu tiên của cách diễn giải truyền thống là thời gian. Và đó là một vấn đề lớn. Cách diễn giải truyền thống chỉ đi theo một dòng thời gian đơn giản: Không lực Lục quân Hoa Kỳ[1] ném bom hạt nhân xuống Hiroshima vào ngày 6 tháng 8, ba ngày sau họ ném một quả bom nữa xuống Nagasaki, và ngay hôm sau Nhật Bản tỏ ý định muốn đầu hàng”. Khó mà có thể đổ lỗi cho những tờ báo của Mỹ vì cho đăng những dòng tít như “Hòa bình ở Thái Bình Dương: Bom của chúng ta đã thành công!”. Khi câu chuyện về Hiroshima được kể lại trong phần lớn sách lịch sử Mỹ, ngày vụ ném bom diễn ra – ngày 6 tháng 8 – được dùng làm cao trào của câu chuyện. Tất cả thành tố của câu chuyện đều hướng đến thời khắc đó: quyết định chế tạo quả bom, những nghiên cứu bí mật ở Los Alamos, cuộc thử nghiệm đầu tiên đầy ấn tượng, và thành quả cuối cùng ở Hiroshima. Nói cách khác, nó được kể như là một câu chuyện về bom nguyên tử. Song không thể nào phân tích quyết định đầu hàng của Nhật Bản một cách khách quan trong bối cảnh câu chuyện về bom nguyên tử. Ngay cách nói “câu chuyện về bom nguyên tử” đã giả định rằng vai trò của bom nguyên tử là trọng tâm rồi. Nếu xem xét từ quan điểm của Nhật Bản, thì ngày quan trọng nhất trong tuần thứ 2 của tháng 8 năm đó không phải ngày 6 mà là ngày 9 tháng 8. Đó là ngày Hội đồng Tối cao đã họp – lần đầu tiên trong cả cuộc chiến – để bàn về việc đầu hàng vô điều kiện. Hội đồng Tối cao là một nhóm gồm 6 thành viên cao cấp nhất của chính phủ – giống như một “nội” nội các – và trên thực tế là nhóm người đã cai trị Nhật Bản trong năm 1945. Giới lãnh đạo Nhật Bản đã không cân nhắc một cách nghiêm túc đến việc đầu hàng cho đến tận ngày đó. Đầu hàng vô điều kiện (điều mà phe Đồng Minh yêu cầu) là một viên thuốc đắng. Hoa Kỳ và Anh Quốc khi đó đã đang tổ chức những phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh ở châu Âu. Sẽ thế nào nếu như họ quyết định đưa Thiên Hoàng Nhật Bản – vốn được coi như thánh sống – ra trước tòa? Sẽ thế nào nếu họ phế truất Thiên Hoàng và thay đổi hoàn toàn hình thức chính quyền? Kể cả khi tình hình trong mùa hè năm 1945 đã rất tồi tệ, thì các nhà lãnh đạo Nhật Bản vẫn không sẵn sàng cân nhắc việc từ bỏ truyền thống, tín ngưỡng, hay lối sống của họ. Cho đến ngày 9 tháng 8. Chuyện gì đã có thể xảy ra để làm họ phải đổi ý một cách bất ngờ và quyết đoán như vậy? Điều gì đã khiến họ phải ngồi xuống và họp bàn một cách nghiêm túc về việc đầu hàng lần đầu tiên sau 14 năm chiến tranh? Điều đó không thể nào là Nagasaki. Vụ ném bom Nagasaki diễn ra vào cuối buổi sáng ngày 9 tháng 8, sau khi Hội đồng Tối cao đã bắt đầu họp bàn chuyện đầu hàng, và tin về vụ ném bom chỉ đến tai các nhà lãnh đạo Nhật Bản vào đầu buổi chiều – sau khi cuộc họp của Hội đồng Tối cao đã kết thúc trong bế tắc và toàn bộ nội các đã được triệu tập để tiếp tục họp bàn. Chỉ dựa trên yếu tố thời gian thôi, thì Nagasaki không thể nào là động cơ khiến họ đầu hàng. Hiroshima cũng không phải là lý do hợp lý. Vụ ném bom Hiroshima diễn ra trước đó 74 giờ – nghĩa là hơn ba ngày. Khủng hoảng kiểu gì mà phải mất đến ba ngày mới phát tác? Đặc trưng của khủng hoảng là gây ra cảm giác tai họa ngay trước mắt và mong muốn dữ dội phải hành động ngay lập tức. Làm sao mà các nhà lãnh đạo Nhật Bản có thể cảm thấy rằng vụ Hiroshima đã châm ngòi một cuộc khủng hoảng và rồi không họp bàn về vấn đề đó cho tới tận ba ngày sau? Tổng thống John F. Kennedy còn đang ngồi trên giường đọc báo vào khoảng 8:45 sáng ngày 16 tháng 10 năm 1962 khi McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia của ông, chạy vào để báo rằng Liên Xô đang bí mật lắp đặt tên lửa hạt nhân ở Cuba. Trong vòng hai giờ bốn mươi lăm phút, một ủy ban đặc biệt đã được thành lập, các thành viên trong hội đồng đã được xét chọn, liên lạc, đưa đến Nhà Trắng, và ngồi quanh bàn họp nội các để thảo luận xem nên làm gì. Tổng thống Harry Truman đang đi nghỉ tại Independence, Missouri vào ngày 25 tháng 6 năm 1950 khi Bắc Triều Tiên đưa quân vượt qua vĩ tuyến 38 và xâm lược Nam Triều Tiên. Ngoại trưởng Acheson đã gọi ngay cho Truman vào sáng thứ 7 đó để báo tin cho ông. Trong vòng 24 giờ, Truman đã bay nửa vòng qua nước Mỹ và có mặt tại Nhà Blair[2] (Nhà Trắng khi đó đang được tu sửa) cùng các cố vấn quân sự và chính trị hàng đầu để bàn tính nên làm gì tiếp theo. Thậm chí Tướng George Brinton McClellan – tổng tư lệnh Binh đoàn Potomac thuộc quân miền bắc vào năm 1863 trong thời Nội Chiến Mỹ, người mà Tổng thống Lincoln nhận xét một cách đáng buồn rằng “Anh ta là người chậm chạp” – cũng chỉ mất 12 giờ để phản ứng sau khi thu giữ được một bản quân lệnh của Tướng Robert E. Lee về việc xâm lược Maryland. Những vị lãnh đạo này đều đã phản ứng bởi nhu cầu cấp bách mà một cuộc khủng hoảng tạo ra – như các lãnh đạo của bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ phản ứng. Họ đều có những bước đi quyết đoán trong một khoảng thời gian rất ngắn. Làm thế nào có thể lắp ghép cách hành xử này với phản ứng của những nhà lãnh đạo Nhật Bản? Nếu Hiroshima thực sự châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng mà cuối cùng đã buộc Nhật Bản phải đầu hàng sau 14 năm chiến tranh, thì sao họ lại phải mất đến 3 ngày mới cùng họp mặt để bàn về nó? Có người có thể lập luận rằng sự trì hoãn này là hoàn toàn hợp lý. Có lẽ họ đã chỉ nhận thức được tầm quan trọng của vụ ném bom này một cách chậm rãi. Có lẽ họ chưa biết đó là vũ khí hạt nhân và khi đã biết và đã nhận ra tác động khủng khiếp của loại vũ khí này, thì họ đã tự nhiên kết luận rằng họ phải đầu hàng. Không may thay, cách lý giải này không phù hợp với các bằng chứng. Trước hết, tỉnh trưởng Hiroshima đã báo cáo cho Tokyo vào ngay ngày Hiroshima bị ném bom rằng khoảng một phần ba dân số thành phố đã bị giết trong vụ tấn công và khoảng hai phần ba thành phố đã bị phá hủy. Thông tin này không hề thay đổi trong những ngày sau đó. Vậy nên kết quả cuối cùng của vụ ném bom đã rõ ràng ngay từ đầu. Các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã biết tương đối rõ hậu quả của vụ tấn công ngay từ ngày đầu tiên, vậy mà họ vẫn không phản ứng. Thứ hai, báo cáo sơ bộ của nhóm điều tra của Lục quân (Nhật) về vụ ném bom Hiroshima, bản báo cáo rất chi tiết về chuyện đã xảy ra ở đó, đã không được trình nộp cho đến ngày 10 tháng 8. Nói cách khác, bản báo cáo này đã không được đưa đến Tokyo cho đến sau khi đã có quyết định đầu hàng. Mặc dù họ đã báo cáo bằng miệng (cho quân đội) về vụ đánh bom vào ngày 8 tháng 8, song vẫn không có chi tiết về vụ ném bom này cho đến hai ngày sau. Do đó, đưa ra quyết định đầu hàng không phải xuất phát từ sự sợ hãi sâu sắc trước nỗi kinh hoàng ở Hiroshima. Thứ ba, quân đội Nhật Bản có hiểu, ít nhất là một cách sơ sài, vũ khí hạt nhân là gì. Nhật Bản cũng có một chương trình vũ khí hạt nhân. Một vài quân nhân đã viết trong nhật ký của họ rằng một quả bom nguyên tử đã hủy diệt Hiroshima. Tướng Anami Korechika, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh, thậm chí đã tham vấn với người đứng đầu chương trình vũ khí hạt nhân của Nhật Bản vào tối ngày 7 tháng 8. Vì vậy cho rằng các nhà lãnh đạo Nhật Bản không biết gì về vũ khí hạt nhân là không hợp lý. Cuối cùng, một dữ kiện khác về chuyện thời gian cho thấy một vấn đề rất lớn. Ngày 8 tháng 8, Ngoại trưởng Togo Shigenori đã đến gặp Thủ tướng Suzuki Kantaro và yêu cầu triệu tập Hội đồng Tối cao để họp bàn về vụ ném bom Hiroshima, nhưng các thành viên trong Hội đồng đã từ chối. Vậy là cuộc khủng hoảng đã không lớn lên từng ngày cho đến khi bùng phát toàn diện vào ngày 9 tháng 8. Bất kỳ cách lý giải nào về những hành động của các lãnh đạo Nhật Bản dựa trên cơ sở cơn “sốc” từ vụ ném bom Hiroshima phải lý giải được vì sao họ đã cân nhắc họp mặt vào ngày 8 tháng 8 để bàn về vụ ném bom, quyết định rằng nó là không quan trọng, và rồi đột nhiên quyết định họp bàn chuyện đầu hàng ngay ngày hôm sau. Hoặc là tất cả bọn họ đều bị chung một dạng bệnh tâm thần phân liệt tập thể nào đó, hoặc là một sự kiện nào khác mới thực sự là động cơ để họ bàn tính chuyện đầu hàng. Quy mô Xét về mặt lịch sử, việc sử dụng bom nguyên tử có thể được xem như sự kiện riêng lẻ quan trọng nhất trong cuộc chiến. Tuy nhiên, nếu xét từ quan điểm của Nhật Bản tại thời điểm đó, có thể không dễ gì phân biệt được vụ ném bom nguyên tử với những sự kiện khác. Sau cùng thì đâu dễ gì phân biệt được một hạt mưa giữa một cơn giông bão. Mùa hè năm 1945, Không lực Lục quân Hoa Kỳ đã thực hiện một trong những chiến dịch hủy diệt thành thị dữ dội nhất trong lịch sử thế giới. Sáu mươi tám thành phố của Nhật Bản đã bị không kích và tất cả đều bị hủy diệt một phần hoặc toàn bộ. Ước tính khoảng 1,7 triệu người đã mất nhà cửa, 300.000 người chết, và 750.000 người bị thương. Sáu mươi sáu trong tổng số những vụ tấn công đó được thực hiện bằng bom thông thường, hai vụ bằng bom nguyên tử. Sự hủy diệt từ những vụ tấn công thông thường là rất lớn. Hết đêm này qua đêm khác, suốt cả mùa hè, các thành phố đều chìm trong khói lửa. Giữa cơn hủy diệt nhiều như thác đổ như vậy, sẽ chẳng đáng ngạc nhiên nếu một vụ tấn công đơn lẻ nào đó không gây được ấn tượng gì nhiều – kể cả nếu nó được thực hiện bằng một loại vũ khí mới đáng chú ý nào đó. Một máy bay ném bom B-29 xuất phát từ quần đảo Mariana có thể mang theo khoảng 16.000 đến 20.000 pound[3] bom, tùy thuộc vào vị trí mục tiêu và cao độ tấn công. Một vụ không kích điển hình thường cần đến 500 đợt máy bay ném bom. Điều này nghĩa là trong một cuộc không kích thông thường sẽ có khoảng 4 – 5 kiloton bom được thả xuống mỗi thành phố. (Một kiloton tương đương với một ngàn tấn và là đơn vị tiêu chuẩn để đo sức công phá của vũ khí hạt nhân. Sức công phá của quả bom được thả xuống Hiroshima là 16,5 kiloton, của quả bom được thả xuống Nagassaki là 20 kiloton). Do việc sử dụng nhiều quả bom sẽ phân bổ sự hủy diệt ra đều hơn (và do đó sẽ hiệu quả hơn), trong khi một quả bom duy nhất, dù mạnh hơn, sẽ lãng phí phần lớn sức công phá ở khu vực trung tâm vụ nổ – trên thực tế là làm cho đống đổ nát bị bật lại – thì có thể lập luận rằng một số vụ không kích bằng bom thông thường đã đạt đến mức độ hủy diệt gần bằng hai vụ ném bom nguyên tử. Vụ không kích thông thường đầu tiên, diễn ra vào đêm 9-10 tháng 3 tại Tokyo, đến nay vẫn là vụ tấn công có mức độ hủy diệt lớn nhất nhằm vào một thành phố trong lịch sử chiến tranh. Khoảng 16 dặm vuông[4] diện tích thành phố đã bị phá hủy. Khoảng 120.000 người Nhật đã thiệt mạng – con số thương vong lớn nhất trong số bất kỳ vụ không kích đô thị nào. Vì cách kể lại câu chuyện mà chúng ta thường tưởng tượng rằng vụ ném bom Hiroshima có hậu quả kinh khủng hơn rất nhiều. Chúng ta tưởng tượng rằng số người bị giết trong vụ đó là cao chưa từng có. Nhưng nếu thống kê số người thiệt mạng trong số tất cả 68 thành phố bị không kích vào mùa hè năm 1945, thì bạn sẽ thấy Hiroshima xếp thứ hai về số thường dân thiệt mạng. Nếu thống kê theo số diện tích bị phá hủy, thì bạn sẽ thấy Hiroshima xếp thứ tư. Nếu thống kê số phần trăm diện tích thành phố bị phá hủy, thì Hiroshima xếp thứ 17. Rõ ràng là Hiroshima nằm trong phạm vi phạm vi mức độ hủy diệt của những vụ không kích thông thường diễn ra trong mùa hè năm đó. Từ quan điểm của chúng ta, vụ Hiroshima có vẻ đặc biệt, phi thường. Nhưng nếu bạn đứng vào vị trí của những nhà lãnh đạo Nhật Bản trong khoảng ba tuần trước vụ ném bom Hiroshima, thì toàn cảnh sẽ khác đi đáng kể. Nếu bạn là một thành viên chủ chốt trong chính phủ Nhật Bản vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8, trải nghiệm của bạn về những vụ ném bom thành thị sẽ như thế này: Sáng ngày 17 tháng 7, bạn sẽ thức dậy và nhận được báo cáo rằng trong đêm qua bốn thành phố đã bị tấn công: Oita, Hiratsuka, Numazu, và Kuwana. Trong số này, Oita và Hiratsuka bị hủy diệt hơn 50%. Kuwana bị hủy diệt hơn 75% và Numazu còn phải chịu hậu quả nặng nề hơn, với khoảng 90% thành phố bị san phẳng. Ba ngày sau đó bạn tỉnh dậy và biết tin rằng ba thành phố nữa đã bị tấn công. Fukui bị hủy diệt hơn 80%. Một tuần sau đó, thêm ba thành phố nữa bị tấn công trong đêm trước đó. Hai ngày sau, thêm sáu thành phố bị tấn công trong một đêm, trong đó Ichinomiya bị hủy diệt 75%. Vào ngày 2 tháng 8, bạn đến phòng làm việc và nhận được báo cáo rằng thêm bốn thành phố nữa đã bị tấn công. Và trong những báo cáo này sẽ bao gồm thông tin rằng Toyama (xấp xỉ kích thước Chattanooga, Tennessee vào năm 1945) đã bị hủy diệt 99,5%. Gần như toàn bộ thành phố đã bị san thành bình địa. Bốn ngày sau đó và thêm bốn thành phố nữa bị tấn công. Ngày 6 tháng 8, chỉ có một thành phố, Hiroshima, bị tấn công nhưng các báo cáo viết rằng thiệt hại là rất lớn và có một loại bom mới được sử dụng. Một vụ tấn công mới này có thể nổi bật hơn là bao so với hàng loạt những vụ ném bom thành thị đã diễn ra suốt hàng tuần trước đó? Trong ba tuần trước khi Hiroshima bị ném bom, 26 thành phố đã bị Không lực Lục quân Hoa Kỳ tấn công. Trong số đó, tám thành phố – gần một phần ba tổng số – bị tàn phá ở mức độ ngang bằng hay thậm chí là hơn cả Hiroshima (tính theo tỉ lệ phần trăm diện tích thành phố bị hủy diệt). Việc Nhật Bản có đến 68 thành phố bị phá hủy trong mùa hè năm 1945 đưa ra một thách thức lớn cho những người cho rằng vụ ném bom Hiroshima là nguyên nhân Nhật Bản đầu hàng. Câu hỏi là: Nếu họ đầu hàng vì một thành phố bị phá hủy, thì tại sao họ không đầu hàng khi 66 thành phố kia bị phá hủy? Nếu các lãnh đạo Nhật Bản định đầu hàng vì Hiroshima và Nagasaki, bạn sẽ cho rằng họ cũng quan tâm đến các vụ ném bom thành thị nói chung, rằng những vụ tấn công nhằm vào các thành phố của họ đã gây áp lực buộc họ phải đầu hàng. Nhưng có vẻ không phải như vậy. Hai ngày sau khi Tokyo bị không kích, cựu Ngoại trưởng Shidehara Kijuro đã bày tỏ một quan điểm mà dường như cũng được rất nhiều thành viên cấp cao trong chính phủ Nhật Bản lúc bấy giờ chia sẻ. Shidehara nói rằng “người dân sẽ quen dần với việc ngày nào cũng phải hứng chịu bom. Dần dần tinh thần đoàn kết và quyết tâm của họ sẽ mạnh mẽ hơn nữa”. Trong một lá thư gửi một người bạn ông viết rằng quan trọng là người dân phải cam chịu khổ cực vì “kể cả nếu hàng trăm ngàn người không trực tiếp tham chiến bị giết, bị thương, hoặc chết đói, kể cả nếu hàng triệu tòa nhà bị phá nát hay thiêu hủy”, thì vẫn cần có thêm thời gian vì mục đích ngoại giao. Cần phải nhớ rằng Shidehara là một nhân vật ôn hòa. Những lãnh đạo ở cấp cao nhất trong chính phủ – trong Hội đồng Tối cao – dường như cũng có thái độ như vậy. Mặc dù Hội đồng Tối cao đã bàn tính đến tầm quan trọng của việc Liên Xô vẫn còn trung lập, song họ chưa hề thảo luận kỹ lưỡng về tác động của những vụ ném bom thành thị. Trong những ghi chép được lưu giữ lại, những vụ ném bom thành thị thậm chí còn không được nhắc đến trong các cuộc thảo luận của Hội đồng Tối cao ngoại trừ hai lần: một lần được nhắc đến vào tháng 5 năm 1945 và một lần trong cuộc họp bàn về nhiều vấn đề trong đêm 9 tháng 8. Dựa trên các bằng chứng, thật khó có thể chứng minh được rằng các lãnh đạo Nhật Bản cho rằng những vụ ném bom thành thị có ý nghĩa quan trọng hơn so với những vấn đề cấp bách khác trong thời chiến. Tướng Anami vào ngày 13 tháng 8 đã nhận xét rằng hai vụ ném bom nguyên tử chẳng mấy đe dọa hơn những vụ ném bom thông thường mà Nhật Bản đã phải chịu đựng hàng tháng trời. Nếu Hiroshima và Nagasaki chẳng tệ hại hơn những vụ ném bom thông thường là mấy, và nếu các lãnh đạo Nhật Bản không cho rằng chúng đủ quan trọng để mang ra thảo luận kỹ lưỡng, thì sao mà những vụ ném bom xuống Hiroshima và Nagasaki có thể làm họ sợ đến mức đầu hàng được? (Xem tiếp Phần 2) ——————— [1] Không lực Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Army Air Forces) là đơn vị không quân trực thuộc Lục quân Hoa Kỳ (U.S. Army). Phải đến năm 1947 đơn vị này mới tách ra khỏi Lục quân và trở thành một quân chủng riêng biệt là Không lực Hoa Kỳ (U.S. Air Force) (ND). [2] Nhà Blair là một tòa nhà lịch sử tại Washington, D.C. và nằm trong quần thể Nhà khách Tổng thống. Năm 1942, chính phủ Hoa Kỳ mua lại tòa nhà này và sử dụng để tiếp đón khách của Tổng thống hay làm nơi ở tạm thời cho Tổng thống bên cạnh Nhà Trắng (ND). [3] 1 pound xấp xỉ 0,45 kg (ND). [4] 1 dặm xấp xỉ 1,6 km, 1 dặm vuông xấp xỉ 2,58 km2 (ND). Biên dịch: Lê Hoàng Giang
|
12/5/20
Tại sao Bộ Ngoại giao Trung Quốc vu khống ông Phạm Văn Đồng? - Sputnik
Tại sao Bộ Ngoại giao Trung Quốc vu khống ông Phạm Văn Đồng?
Trung Quốc đã biến chuyện thực tế thành điều giả mạo như thế nào
"Trong nhiều năm nghiên cứu vấn đề Biển Đông, tôi thường gặp tuyên bố này trong các bài viết và chuyên khảo của giới khoa học Trung Quốc. Nhưng khi bắt đầu tìm hiểu xem “công hàm Phạm Văn Đồng” là gì, tôi đã sớm phát hiện ra rằng các tuyên bố của Trung Quốc về bản chất tài liệu này là hoàn toàn sai sự thật và được thiết kế nhằm tới sự thiếu hiểu biết của đông đảo người dân Trung Quốc và toàn bộ cộng đồng thế giới.
Thứ nhất, đó không phải là công hàm chính thức, mà chỉ là một bức công thư do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai, người mà ông nhiều năm gắn bó và tin tưởng qua quan hệ tình cảm thân thiện. Hai ông từng dẫn đầu phái đoàn của nước mình dự Hội nghị Genève 1954 và hiểu nhau rất rõ.
Thứ hai, bức công thư này đề cập đến tuyên bố của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 4 tháng 9 năm 1958 về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Đây là thời kỳ đỉnh cao của cuộc khủng hoảng chính trị - quân sự gay gắt trong quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan. Khi đó, cả hai bên gần như sắp diễn ra chiến tranh. Trong thời điểm căng thắng đối với Trung Quốc đó, ông Phạm Văn Đồng khẳng định với người đứng đầu chính phủ Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ ủng hộ Bắc Kinh. Cụ thể, trong bức công thư đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết rằng chính phủ VNDCCH ghi nhận Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm “triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”. Và chỉ có vậy mà thôi!
Thứ tư, cách lý giải của Trung Quốc về bức công thư của ông Phạm Văn Đồng là hoàn toàn bóp méo thiện chí của VNDCCH đối với Trung Quốc, khi đó (năm 1958) đang lâm vào tình huống khó khăn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng và các cố vấn của ông không phải là các chính trị gia ngây thơ và thiếu hiểu biết. Họ biết rất rõ, ngay cả tại hội nghị thế giới về hiệp ước hòa bình với Nhật Bản tại San Francisco năm 1951, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã không được công nhận là của Trung Quốc như Bắc Kinh mong muốn, mà là của Việt Nam, thuộc Nhà nước Việt Nam, từ thời kỳ người Pháp bảo hộ chính quyền vua Bảo Đại. Và năm 1954, theo Hiệp định Genève, hai quần đảo đó tạm thời thuộc chính quyền Việt Nam Cộng hòa, được thành lập ở miền Nam Việt Nam. Vào thời điểm ông Phạm Văn Đồng viết bức công thư nói trên, hai quần đảo này không thuộc quyền kiểm soát của VNDCCH, do đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có quyền hành với các quần đảo đó. Thật vậy, ngay cả khi muốn làm điều này, trong bức công thư của mình, ông Phạm Văn Đồng cũng không thể xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với một phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam mà không có sự đồng ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội VNDCCH".
Tuyên bố của Bắc Kinh về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là không có căn cứ
"Do không có bằng chứng đáng tin cậy, chính quyền Trung Quốc buộc phải dùng đến những biện chứng hoàn toàn dối trá. Các dẫn chứng của Trung Quốc về cáí gọi là “công hàm Phạm Văn Đồng” không hề có ý nghĩa pháp lý nào và không hề có bất cứ cơ sở nào. Ngoài ra, các liên kết này còn phủ bóng đen lên một trong những nhà lãnh đạo được kính trọng nhất của Việt Nam và vẫn sống mãi trong ký ức của mọi người dân đất nước này như Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi cho rằng cần phải bảo vệ tên tuổi ông Phạm Văn Đồng trước những lời bịa đặt vu khống hiện đang được tất cả kẻ thù của Việt Nam sử dụng, đặc biệt là các thế lực phản động trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài, những người cáo buộc nhà lãnh đạo Việt Nam “đầu hàng Trung Quốc”. Sử dụng tất cả các phương tiện truyền thông hiện đại, tích cực hướng đến tất cả các nước trong Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ khác, Chính phủ Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam đang làm tất cả mọi điều để mang sự thật đến với cộng đồng thế giới. Chân lý đó là: Trung Quốc không được quyền nêu yêu sách chủ quyền đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong Biển Đông và không có lý do nhỏ nhất nào để tuyên bố rằng chính phủ VNDCCH thông qua Thủ tướng Phạm Văn Đồng "đã nhượng lại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc".
9/5/20
5/5/20
Bài 20: CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 – 1954)
4/5/20
Việt Nam thành công nhất thế giới trong xử lý Covid-19
Báo Anh: "Việt Nam thành công nhất thế giới trong xử lý Covid-19"
(Dân Việt) Báo chí Anh những ngày qua đã có các bài viết về việc Việt Nam kiểm soát thành công dịch Covid-19, cho rằng Chính phủ Việt Nam đã rất quyết liệt, sáng tạo. Họ cũng đề cập có những nghi ngờ việc Việt Nam “giấu dịch”, song dẫn lời các chuyên gia y tế, báo chí Anh cho biết không có gì khẳng định điều đó.
21/4/20
Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay
Đinh Công Tuấn (17-7-2015), Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/dieu-chinh-chinh-sach-doi-ngoai-cua-trung-quoc-hien-nay.
ĐINH CÔNG TUẤN
Thứ sáu, 17 Tháng 7 2015 21:20
1. Đặt vấn đề
Hơn 90 năm qua kể từ khi thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921), hơn 70 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949), mục tiêu chiến lược của Trung Quốc không hề thay đổi, đó là xây dựng Trung Quốc trở thành cường quốc số 1 lãnh đạo thế giới. Từ sau Đại hội 18 ĐCSTQ (2012), TQ đặc biệt nhấn mạnh xây dựng “CHXH đặc sắc Trung Quốc”, với nền tảng lý luận là kiên trì phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng “ba đại diện” của Giang Trạch Dân, quan điểm phát triển khoa học, hài hòa XHCN của Hồ Cẩm Đào. Và hiện nay Trung Quốc đã bổ sung lý luận về việc “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”, thực hiện “giấc mộng Trung Hoa” với hai mục tiêu có tính tiêu chí của Tập Cận Bình (2 mục tiêu 100 năm, một là kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCSTQ (1921 – 2021) nhằm xây dựng xã hội khá giả toàn diện, và hai là kỷ niệm 100 năm thành lập nước CHNDTH (1949 – 2049) xây dựng thành công nhà nước TQ hiện đại hóa XHCN, văn minh, dân chủ, giàu mạnh, hài hòa[1].
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích những điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay, đặc biệt trong thời kỳ Tập Cận Bình lãnh đạo đất nước và những tác động của nó đến khu vực và thế giới.
2. Vì sao TQ phải điều chỉnh chính sáchđốingoại?
2.1. Do tình hình thế giới đã có những biến đổi sâu sắc
- Hiện nay, Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện vai trò lãnh đạo thế giới và đẩy mạnh sự can dự trên phạm vi toàn cầu. Mỹ đã và đang thực thi chiến lược “xoay trục” từ Đại Tây Dương sang châu Á – Thái Bình Dương. Trung Quốc nhận thức rằng, điều đó đã đe dọa, thách thức đến địa vị lãnh đạo khu vực mà TQ đã ấp ủ thực thi bao lâu nay.
- Châu Âu hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, thách thức to lớn cả về chính trị và kinh tế. Về chính trị, châu Âu đang sa lầy vào cuộc khủng hoảng Ucraina. Với việc bao vây cấm vận nước Nga, EU đang gặp nhiều khó khăn trong việc vấp phải sự phản kháng mãnh liệt từ phía Nga. Hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu giải quyết bình thường, ổn định vấn đề này.
Về kinh tế, một mặt châu Âu đang phải tập trung khắc phục những tác động xấu của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp, mặt khác những phản đòn kinh tế của Nga nhằm vào EU cũng đang gây nên nhũng hệ lụy xấu trong thương mại, đầu tư, sản xuất ở các nước thành viên.
Những diễn biến xấu ở châu Âu đang tạo cơ hội mới cho Trung Quốc trong việc phát huy, mở rộng ảnh hưởng cả về chính trị, kinh tế của mình ở châu Âu hiện nay.
- Đối với các nước đang phát triển ở khu vực Á, Phi, Mỹ la tinh: TQ trong những năm qua đã tận dụng mọi thời cơ, tạo ra các cơ hội mới để mở rộng quan hệ hợp tác cả về chính trị, kinh tế với các nước này, trên cả 3 cấp độ: toàn cầu, khu vực, song phương. TQ đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến mới, khai thác những yếu kém của các nước, tập trung mở rộng đầu tư, thương mại, viện trợ cho các nước, với mục tiêu hết sức thực dụng, nhằm thu về những lợi ích tối đa (nhiều phân tích quốc tế cho rằng Trung Quốc đang ráo riết thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở các nước đang phát triển trong phạm vi toàn cầu). Tình hình thế giới hiện nay đã tạo thuận lợi lớn cho việc điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
2.2. Do tình hình trong nước có những biến chuyển và thay đổi lớn lao
Thứ nhất:thực lực, vị thế hiện nay của TQ đã thay đổi mạnh mẽ theo hướng có lợi, điều đó buộc TQ phải điều chỉnh, thay đổi chính sách đối ngoại của mình.
Sau hơn 35 năm cải cách, mở cửa với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 10% một năm, hiện nay GDP của TQ đã đạt mức 10.500 tỷ USD, nếu tính theo sức mua tương đương (PPP) thì GDP của TQ còn cao hơn so với Mỹ, đứng đầu thế giới. Khi bắt đầu cải cách mở cửa (1978), GDP của TQ chỉ bằng 1/3 của Nga, đến năm 2014 GDP của TQ đã lớn gấp 6 lần GDP của Nga. Năm 2014, dự trữ vàng và ngoại hối của Trung Quốc đã đạt gần 4000 tỷ USD, lớn nhất thế giới. Kim ngạch thương mại cũng đạt hơn 4000 tỷ USD, đứng đầu thế giới. Như thế, nếu tính từ khi cải cách (1978), GDP của TQ hiện nay (2014) đã tăng gấp 15 lần, sản xuất công nghiệp tăng 20 lần, kim ngạch thương mại tăng hơn 100 lần, đã biến TQ từ một “công xưởng thế giới” thành một “nhà máy của tri thức”[2].
TQ đã kết thúc thời kỳ bị động “im lặng chờ thời”, “trỗi dậy hòa bình” do Đặng Tiểu Bình đề ratừ thập kỷ 1990, và hiện nay đã chuyển sang giai đoạn mới thực hiện ngoại giao nước lớn, chủ độngđề xuất sáng kiến mới, nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ở khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, TQ hiện nay đã điều chỉnh chính sách đối ngoại mới nhằm đẩy mâu thuẫn, xung đột trong nước ra bên ngoài. Do hiện nay, TQ có nhiều mâu thuẫn, xung đột nội tại đất nước như mâu thuẫn trong cách đi, cách thực hiện công cuộc chống tham nhũng “đả hổ, diệt ruồi”, mâu thuẫn về hệ lụy phát triển đất nước, chênh lệch giữa nông thôn – thành thị, vùng ven biển – vùng nội địa, đặc biệt vùng phía Đông và Tây Nam, giữa công nghiệp với nông nghiệp, các vấn đề chống đối ở Tây Tạng, Tân Cương, vấn đề về việc làm – thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, già hóa dân số, phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo, văn hóa – xã hội, người nhập cư và người yếu thế trong xã hội v.v… Những thuận lợi và thách thức khó khăn kể trên đã thúc đẩy TQ phải chuyển đổi chính sách đối ngoại mới nhằm thúc đẩy hoàn thành nhanh chóng sự nghiệp cải cách mở cửa đất nước, thực hiện chấn hưng Trung Hoa, hoàn thành giấc mộng Trung Hoa do Tập Cận Bình khởi xướng.
3. TQ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại mới ra sao?
3.1. Chiến lược đối ngoại của TQ đã thay đổi theo từng giai đoạn của đất nước.
- Sau khi nước CHNDTH ra đời (1949), thập kỷ 50 của thế kỷ XX, TQ thực hiện chính sách đối ngoại “nhất biên đảo” (ngả một bên) (ngả về Liên Xô).
- Đến thập niên 60 (thế kỷ XX) TQ điều chỉnh thành “Lưỡng biên phản” (chống cả hai bên: Liên Xô, Mỹ).
- Bước vào thập niên 70 (thế kỷ XX), TQ chuyển sang chính sách “Nhất điều tuyến” ( một tuyến).
- Thập kỷ 80, TQ thực hiện chính sách “Độc lập cán” (thực hiện chính sách độc lập tự chủ).
- Sau chiến tranh lạnh thập kỷ 90,TQ thực hiện chính sách đối ngoại mới “tăng cường kết bạn”. Cho đến nay, đường lối đối ngoại “tăng cường kết bạn” ngoại giao bạn bè vẫn được TQ duy trì tiếp tục.
3.2. Những điều chỉnh mới trong chiến lược “Ngoại giao bạn bè”
- Đặc trưng chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ là:
1) Thực dụng, cùng có lợi
2) Trên cơ sở tự nguyện đôi bên
3) Công khai, không chống nước thứ 3
4) Được thiết lập bằng con đường ngoại giao chính thống
5) Cơ chế vận hành là đối thoại nhiều tầng nấc, xây dựng mô hình hợp tác song phương (nước với nước, bộ ngành địa phương với nhau, các lĩnh vực khác nhau, hình thức: gặp gỡ cấp cao thường kỳ, đường dây nóng, trao đổi…).
6) Khung quan hệ được xác định gồm 4 tầng nấc:
+ Tầng thứ nhất: “Mô hình ổn định” chỉ quan hệ hai nước đạt đến trình độ mật thiết, ổn định. Ví dụ: quan hệ TQ với LB Nga.
+ Tầng thứ hai: “Mô hình thông thường” chỉ quan hệ mới bắt đầu khởi sắc, chưa có biểu hiện gì đặc sắc. Ví dụ: quan hệ TQ – Canada.
+ Tầng thứ 3: “Mô hình có triển vọng”, chỉ mối quan hệ đã được xác lập, nhưng phát triển chưa toàn diện, có nhiều vấn đề cọ xát gay cấn. Ví dụ: quan hệ TQ – Hoa Kỳ.
+ Tầng thứ 4: “Mô hình tiềm năng”, chỉ mối quan hệ tương lai có thể xây dựng và phát triển quan hệ tốt trên nhiều lĩnh vực”[3].
7) Cơ cấu chủ thể trong chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ bao gồm 3 bộ phận chủ yếu:
Thứ nhất: “Điểm”, là nói đến quan hệ của TQ với các nước lớn trên thế giới, bao gồm 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc: Hoa Kỳ, Nga, Anh, Pháp, những nước này có ảnh hưởng lớn đến các công việc quốc tế. TQ đặc biệt chú ý phát triển quan hệ toàn diện với các nước lớn, nước trở thành “điểm” cực kỳ quan trọng trong chiến lược “ngoại giao bạn bè” của TQ.
Thứ hai: “Tuyến”, thực chất chỉ “cương tuyến” (đường biên giới quốc gia). TQ chú trọng quan hệ với các nước láng giềng, coi đây là “tuyến” sống còn, an nguy quốc gia.
Thứ ba: “Diện” chỉ TQ xây dựng với tất cả các quốc gia trên thế giới với tinh thần hữu nghị, hợp tác, cùng có lợi[4].
3.3. Những điều chỉnh mới trong chính sách ngoại giao hiện nay, thời Tập Cận Bình lãnh đạo đất nước
- Sau khi lên nắm quyền, Tập Cận Bình đã tiến hành điều chỉnh rất nhiều về chính sách đối nội và đối ngoại, đáng chú ý nhất là chiến lược, chính sách ngoại giao. Trong kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 12 ngày 5/3/2015, TQ đã đưa ra tiêu đề điều chỉnh ngoại giao mới: “Đẩy mạnh điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng, thúc đẩy triển khai chiến lược “một vành đai, một con đường”, nội dung đã nêu rõ: “Đi sâu đối thoại chiến lược và hợp tác thực chất với các nước lớn, xây dựng khung quan hệ nước lớn lành mạnh, ổn định. Thúc đẩy toàn diện ngoại giao chu biên (láng giềng mở rộng), xây dựng “cộng đồng vận mệnh chu biên”. Theo đó, TQ sắp xếp thứ tự ưu tiên:
1) “Ngoại giao nước lớn” được đặt ở vị trí đầu tiên
2) “Ngoại giao láng giềng” được đặt ở vị trí thứ hai.
- Trung Quốc đang tính toán xây dựng “chiến lược ngoại giao đại chu biên” cho 10 năm tới, với các nội dung sau: (1) Xác lập điểm ngoại giao “đại chu biên”, (2) Xây dựng nước lớn kiểu mới với Mỹ và 3 nước lớn xung quanh là Nhật, Nga, Ấn Độ, (3) Thống nhất đồng bộ, liên thông ngoại giao láng giềng của 6 địa bàn Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á, Tây Á và Nam Thái Bình Dương, (4) Kết hợp điều phối 4 mặt tư duy ngoại giao láng giềng giữa “đột phá trên biển” với “tích cực Tây tiến”, “đứng vững trong nước” và “triển khai ra ngoài”[5]. Với 4 phương châm: “chân thành, thân thiện, cùng có lợi và “dung” (hài hòa, chi phối, thôn tính).
- Cụ thể, các hướng điều chỉnh ngoại giao mới của TQ là:
+ Ở phía Đông Bắc: cạnh tranh mãnh liệt với Nhật Bản với chính sách “nhận diện phòng không”, tranh chấp chủ quyền biển đảo.
+ Ở phía Đông Nam, đưa cơ sở lý luận đường biên giới lịch sử về “đường lưỡi bò, 9 đoạn”, đưa giàn khoan HD 981 vào vùng biển Việt Nam, xây dựng 7 đảo nhân tạo trên vùng biển của Việt Nam, thách thức an ninh chủ quyền và an ninh hàng hải của các nước láng giềng như Việt Nam, Philippin, Malayxia, Brunei.
+ Ở phía Bắc, tạm thời hòa hoãn với Nga, nhưng vẫn thực hiện âm mưu thôn tính vùng đất Viễn Đông rộng lớn của Nga khi có điều kiện, thực hiện âm mưu mở rộng bành trướng biên giới với Mông Cổ.
+ Ở phía Nam, ấp ủ âm mưu chia rẽ, mua chuộc, thôn tínhcácvùng đất của Myanma, Lào, Campuchia.
+ Ở phía Tây, lôi kéo các nước Pakistan,Nepal, các nước Trung Á(SNG) nhằm chia rẽ với Ấn Độ và Nga.
- Đặc biệt TQ đưa ra sáng kiến mới kết nối Đông – Tây, Á – Âu – Phi bằng chiến lược “Một vành đai, một con đường” (OBAOR), xây dựng Ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), xây dựng khu vực mậu dịch tự do Châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP)
+ Ý tưởng đầu tiên được Tập Cận Bình đề ra chiến lược cùng nhau xây dựng “vành đai kinh tế, con đường tơ lụa” (NSR) được phát biểu tại trường Đại học Natrapaep, Kazastan ngày 7/9/2013.
+ Sau đó đến ngày 3/10/2013, Tập Cận Bình đề xuất trước Quốc Hội Indonexia rằng TQ sẵn sàng cùng các nước ASEAN xây dựng “con đường tơ lụa trên biển thế kỉ 21” (MSR).
+ Tập Cận Bình lại nêu đề nghị nàytại Hội nghị APEC 11/2014,Trung Quốc coi thời điểm ngày ra đời của NSR và MSR được gọi chung là chiến lược “một vành đài, một con đường” (OBAOR).
+ OBAOR chính thức trở thành chính sách quốc gia từ tháng 11/2013 bằng nghị quyết trung ương 3 khóa 18: “Phải xây dựng cơ cấu tài chính tiền tệ mở, đẩy nhanh xây dựng hỗ liên hỗ thông cơ sở hạ tầng với các quốc gia và khu vực xung quanh, thúc đẩy xây dựng “vành đai kinh tế con đường tơ lụa” và “con đường tơ lụa trên biển” hình thành một cục diện mới mở cửa toàn phương vị”.
- Mục tiêu TQ xây dựng chiến lược “một vành đai, một con đường” (OBAOR) là:
(1) Chủ động đề xuất mới với tư duy nước lớn, vai trò nước lớn, khát khao thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, xây dựng TQ là trung tâm địa chính trị - kinh tế toàn cầu, độc chiếm biển Đông, thực hiện đường lưỡi bò.
(2) Chống lại “chiến lược xoay trục” của Mỹ, đối trọng với TPP và TTIP của Mỹ, do Mỹ chi phối, lấylạivị trí lãnh đạo số 1 thế giới từ tay Mỹ.
(3) Tận dụng yếu tố lịch sử, hơn 2100 năm trước, TQ khởi xướng con đường tơ lụa để khuếch trương thanh thế, mở rộng lợi ích của mình (ngày nay TQ cũng có điều kiện để sử dụng yếu tố lịch sử phục vụ cho chiến lược quốc gia) nhằm phá thế cô đơn, gia tăng ảnh hưởng ra khu vực, thế giới.
(4) Nhu cầu thúc đẩy kinh tế, ngăn đà thiểu phát: cầu thị trường, nguồn năng lượng, nguyên liệu, phát triển cân bằng vùng - miền. Cụ thể, TQ sẽ sử dụng những nguyên liệu sản xuất dư thừa trong nước (sắt thép, xi măng, vật liêu xây dựng...) cùng lực lượng lao động dư thừa và đồng nhân dân tệ để chuyển đổi, để xây dựng một vành đai, một con đường, thông qua ngân hàng AIIB.
- Quy mô của “1 vành đai, 1 con đường” (OBAOR):
+ Thế giới sẽ có một khu vực rộng lớn dưới sự khống chế của TQ:
· Một không gian nối liền 3 châu lục Á – Âu – Phi
· Qua 26 quốc gia và vùng lãnh thổ với dân số 4,4 tỷ người, chiếm 63% dân số thế giới, GDP đạt 21.000 tỷ USD, chiếm 29% GDP toàn cầu, xuất khẩu hàng hóa dịch vụ đạt 23,9% toàn cầu.
+ Hai con đường đều xuất phát từ TQ theo đường bộ và đường biển, hội tụ tại Venise (Ý) tạo thành một vòng tròn khép kín lớn, một hành lang kinh tế dài nhất xuất phát từ TQ, thông qua Trung Á, Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á, qua một phần châu Âu, phía Đông đối với vành đai kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, phía Tây đối với vành đai kinh tế châu Âu.
+ NSR và MSR chia làm 3 tuyến: (1) Tuyến Bắc: xuất phát từ Bắc Kinh – Nga – Đức – Bắc Âu, (2) Tuyến giữa (Trung): xuất phát từ Bắc Kinh – Tây An – Urumsi – Apganistan – Kazastan – Hungary – Paris, (3) Tuyến Nam: Tuyền Châu – Phúc Châu – Quảng Châu – Hải Khẩu – Bắc Hải – Hà Nội – Kuala Lumpur – Jakarta – Colombo – Calcuta – Nairobi – Athens – Venise.
- Những khó khăn thực thi “một vành đai, một con đường” của TQ
(1) Nội bộ TQ
+ Tiềm lực TQ còn hạn chế (kinh tế)
+ Nội bộ phân tán, mâu thuẫn xã hội sâu sắc (chính trị)
(2)Bên ngoài
+ Mỹ và phương Tây gây cản trở
+ TQ không có đồng minh chiến lược, các nước láng giềng và trên thế giới đều nghi ngờ giữa nói và làm của Trung Quốc, không đi đôi với nhau, nghi ngờ động cơ bành trướng, thôn tính lãnh thổ của TQ ẩn náu trong sáng kiến mới hiện nay.
+ Không có cơ sở pháp lý vững vàng để thực hiện, thiếu cơ chế đảm bảo. Các nước tham gia vì có lợi ích của đất nước họ, nhưng nếu kết quả không đạt được như mong đợi, nhất định các nước sẽ bỏ cuộc giữa đường[6]
4. Những hệ lụy và tác động của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại mới của Trung Quốc đến bản thân Trung Quốc và các nước trong khu vực.
4.1. Những hệ lụy và tác động đến Trung Quốc.
(1) Chính sách đối ngoại, đặc biệt chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc sẽ cứng rắn hơn, quyết liệt hơn.
(2) Với việc Trung Quốc thực hiện chính sách “khác biệt cự li”, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh thủ đoạn “chia để trị” đối với các nước láng giềng.
(3) Trung Quốc sẽ tăng cường yếu tố an ninh và yếu tố chiến lược trong chính sách láng giềng, đặt việc “kiên quyết bảo vệ chủ quyền an ninh, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia” vào vị trí ưu tiên số 1 (lợi ích cốt lõi) trong chính sách đối ngoại nói chung và chính sách ngoại giao láng giềng nói riêng, chính sách ngoại giao láng giềng sẽ phải phục vụ tốt hơn cho chiến lược đối ngoại chung của quốc gia.
(4) Trung Quốc sử dụng khung “quan hệ nước lớn kiểu mới Trung – Mĩ” để ngăn chặn quan hệ giữa các nước láng giềng với Mĩ, đồng thời tìm cách chia chác lợi ích với Mĩ qua đầu các nước vừa và nhỏ xung quanh.
(5) Điều chỉnh chính sách đối ngoại mới của Trung Quốc sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh tế mới, Trung Quốc càng có nhiều điều kiện để dùng kinh tế để thúc đẩy chính trị phục vụ cho những lợi ích của mình.
4.2. Tác động đến các nước trong khu vực.
Sự điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng mới của Trung Quốc hiện nay cuối cùng đều nhằm mục tiêu thực hiện chính sách “chia để trị”, gây bất hòa trong các nước láng giềng, tạo ra những nguy cơ mới, thách thức đe dọa đến mọi lĩnh vực đời sống của các quốc gia láng giềng, cụ thể:
Thứ nhất, tác động tiêu cực tới nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực.Trong lĩnh vực thương mại, Trung Quốc thực hiện chính sách cạnh tranh thiếu lành mạnh, khiến cho các nước Đông Nam Á bị đẩy vào thế nhập siêu chỉ đóng vai trò là nơi cung cấp nguyên liệu thô, tài nguyên, năng lượng giá trị thấp cho Trung Quốc, trong khi đó lại nhập về thiết bị, máy móc, đồ gia dụng. Hàng hóa Trung Quốc với giá rẻ, chất lượng thấp, thậm chí còn gây độc hại sức khỏe đã tràn ngập thị trường, tác động rất tiêu cực đến sản xuất nội địa, ảnh hưởng tới chất lượng đời sống của nhân dân và làm gia tăng nạn thất nghiệp ở nhiều nước; gây lo lắng bất bình trong nhân dân, làm mất ổn định chính trị.
Trong hợp tác đầu tư, Trung Quốc chủ yếu quan tâm đến bất động sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các nước Đông Nam Á; đồng thời lợi dụng các dự án để đưa hàng loạt lao động phổ thông, trình độ thấp tới làm việc tại các nước này. Đây là phương thức giải quyết nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu ngày càng gia tăng do quá trình phát triển kinh tế nóng và tạo công ăn việc làm cho số lượng dân chúng thất nghiệp ngày càng nhiều ở Trung Quốc. Điều này khiến cho chính quyền và nhân dân các nước Đông Nam Á đặc biệt lo lắng, bởi hệ lụy không chỉ là mất đất, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, lợi ích của nước sở tại bị tổn hại, dân chúng bản địa mất việc làm và cơ hội, mà còn gây ra nhiều yếu tố đe dọa an ninh quốc gia. Mặt khác, việc Trung Quốc không ngừng đổ tiền đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, bất động sản và khai thác nguyên, nhiên liệu tại các nước ASEAN, làm tăng mức độ phụ thuộc của các nước ASEAN vào nền kinh tế Trung Quốc. Điều đó gây ra nguy cơ: bất cứ một cuộc khủng hoảng kinh tế nào của Trung Quốc cũng sẽ gây ra những tác động rất xấu, thậm chí là khủng hoảng mang tính dây chuyền đối với nền kinh tế ASEAN. Ngoài ra, Trung Quốc có thể lợi dụng những quan hệ hợp tác kinh tế để gây sức ép với các nước ASEAN về chính trị, đối ngoại… nhằm thỏa mãn mục đích và mưu đồ bành trướng của họ.
Thứ hai, tác động tiêu cực tới văn hóa xã hội các nước Đông Nam Á. Với thế mạnh của lịch sử văn hóa lâu đời 5000 năm, Trung Quốc sử dụng “sức mạnh mềm” văn hóa để tiếp cận các nguồn lực và từng bước mở rộng ảnh hưởng của mình bằng cách mở các học viện Khổng Tử, hợp tác giáo dục, cấp học bổng cho học sinh các nước đến Trung Quốc học tập, trong đó dành nhiều ưu tiên cho khu vực Đông Nam Á. Những nguồn nhân lực được đào tạo cả về chuyên môn và tư tưởng Trung Quốc sẽ là lực lượng chính để thao túng và giúp sức cho quá trình thực hiện “sức mạnh mềm” của Trung Quốc tại các nước sở tại; thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa giữa các nước; xuất khẩu các sản phẩm văn hóa như truyền hình, phim ảnh, âm nhạc… ra toàn thế giới, tạo điều kiện để quảng bá ngôn ngữ và làm cho làn sóng văn hóa Trung Quốc tràn vào Đông Nam Á. Hiện nay, làn sóng phim truyền hình Trung Quốc với chủ đề lịch sử hấp dẫn hay những vấn đề nổi cộm của xã hội đương đại đang chiếm thời lượng lớn trên hầu hết các kênh truyền hình của các nước Đông Nam Á, thậm chí khiến cho một số người dân các nước bản địa “thuộc” lịch sử Trung Quốc hơn lịch sử nước mình. Điều này gây tác động xấu đến truyền thống văn hóa của các dân tộc, tới tâm trạng xã hội của các nước Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, cộng đồng người Hoa tại khu vực Đông Nam Á rất đông đảo, có năng lực về tiền vốn và kinh doanh, có mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế, văn hóa với Trung Quốc, đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác, liên kết giữa Trung Quốc với các nước ASEAN. Tuy nhiên, cộng đồng người Hoa luôn là vấn đề trong quan hệ đối nội và đối ngoại của các nước Đông Nam Á; đôi khi tác động tiêu cực tới nền kinh tế các nước và gây mâu thuẫn với người dân sở tại (như việc người Hoa lợi dụng khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực để đầu cơ, nâng giá lương thực khiến cho nhiều người dân bản địa nổi giận).
Thứ ba, tác động tiêu cực, gây chia rẽ nội bộ các nước ASEAN, đặc biệt trong vấn đề Biển Đông. Viện trợ và sức ảnh hưởng ngày càng to lớn của Trung Quốc đối với Đông Nam Á làm tăng tính phụ thuộc của các nước trong khu vực vào Trung Quốc; đây chính là cơ hội và chiêu bài mà Trung Quốc có thể sử dụng để khống chế, ép buộc các nước phải phục vụ mục đích chính trị và lợi ích kinh tế của mình. Trung Quốc ra sức sử dụng con bài kinh tế: hào phóng viện trợ, cho vay, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, mời chào những lợi ích kinh tế… khiến một số nước trong khu vực (điển hình là Campuchia) luôn hoan nghênh, chào đón, ủng hộ Trung Quốc. Trong khi đó, các nước như Philippines, Indonesia, Việt Nam… đều cho rằng, mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược của Trung Quốc xưa nay vẫn là khẳng định vị trí bá quyền và tạo phạm vi ảnh hưởng của nước lớn bá chủ bao trùm khu vực. Điều này tạo ra sự bất đồng quan điểm, gây chia rẽ giữa các nước trong khu vực, phá hoại sự đoàn kết - sức mạnh ảnh hưởng của ASEAN.
Thứ tư, nguy cơ chạy đua vũ trang và nổ ra xung đột vũ trang trong khu vực.Nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế Trung Quốc có điều kiện và thực lực để tăng cường sức mạnh quân sự, đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, đặc biệt chú trọng thực lực hải quân, đồng thời bộc lộ bản chất bá quyền qua những hành động hung hăng trên biển Đông nhằm hiện thực hóa mưu đồ độc chiếm biển Đông. Điều này gây quan ngại sâu sắc cho các nước trong khu vực, nhất là các nước ven biển Đông. Tăng cường sức mạnh quân sự là phản ứng tự nhiên của các nước Đông Nam Á, song song với biện pháp tăng cường hợp tác quân sự khu vực, nhằm đối phó với một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh và hung hăng. Tranh chấp lãnh thổ ở biển Đông ngày càng được thổi bùng do triển vọng các mỏ dầu khí dồi dào, khiến cho Malaysia, Philippines, Brunie và Việt Nam cố gắng tìm cách cân bằng trước sức mạnh hải quân đang phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc. Ngay cả những nước không dính líu trực tiếp vào cuộc tranh chấp (như Thái Lan, Singapore) thì an ninh biển vẫn là một trọng tâm then chốt. Do vậy, các nước Đông Nam Á liên tục tăng cường mua sắm vũ khí (chủ yếu là các chiến hạm, tàu tuần tra, hệ thống radar, máy bay chiến đấu cùng với các tàu ngầm và tên lửa chống hạm) để bảo vệ các tuyến hàng hải, các cảng và biên giới biển quan trọng đối với dòng chảy xuất khẩu và năng lượng. Như vậy, luôn hiện hữu một nguy cơ sẽ xảy ra xung đột vũ trang khi các bên trong tranh chấp thiếu kiềm chế cần thiết.
Kết luận
Kể từ khi Tập Cận Bình lên làm lãnh đạo đất nước, ông đã tập trung mọi quyền lực để khống chế tình hình, thúc đẩy cải cách. Về đối nội lấy “Bốn toàn diện” làm ngọn cờ (toàn diện xây dựng xã hội tiểu khang, toàn diện đi sâu cải cách, toàn diện “y pháp trị quốc” và toàn diện nghiêm khắc quản lý, quản trị Đảng), lấy “xây dựng pháp trị” làm khâu đột phá, lấy “chống tham nhũng” làm công cụ xiết chặt kỷ cương. Về đối ngoại, TQ hoàn toàn từ bỏ phương châm “giấu mình chờ thời”, chuyển sang “hành động thể hiện”, chủ động đưa ra các sáng kiến trong việc tham gia và hoạch định luật chơi quốc tế. TQ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại, thể hiện vai trò “nước lớn kiểu mới” Trung – Mỹ và “Ngoại giao chu biên, đại chu biên” với đột phá là triển khai chiến lược “một vành đai, một con đường”, với sáng kiến xây dựng ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) và xây dựng khu vực thương mại tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP). Mục tiêu đưa TQ vào vị trí trung tâm địa chính trị - kinh tế toàn cầu, nhằm gạt bỏ Mỹ khỏi vai trò lãnh đạo khu vực và toàn cầu. Từ đó TQ cho phép mình hành xử với các nước láng giềng trên cương vị là đất nước lãnh đạo khu vực và toàn cầu trong quan hệ quốc tế cường quyền mới: “thuận sống, chống chết”, “chia để trị”, phân hóa, chia rẽ, gây mâu thuẫn giữa các nước, độc chiếm biển Đông, hoàn thành giấc mộng Trung Hoa.
[1]Báo cáo chính trị Đại hội 18 ĐCSTQ và những tổng hợp của tác giả
[2] “TQ phiên bản đặc biệt của CNXH”, http://nghiencuubiendong.vn
[3] Tìm hiểu chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ hiện nay: đặc trưng, bản chất, mục tiêu”, http://dltntq.laocai.gov.vn
[4] Tìm hiểu chiến lược “Ngoại giao bạn bè” của TQ hiện nay: đặc trưng, bản chất, mục tiêu”, http://dltntq.laocai.gov.vn
[5]Tạp chí “Kinh tế và chính trị thế giới”, 12/12/2013
[6]Hồ Sỹ Tuệ, Trung Quốc năm 2015: Những vấn đề nổi bật vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ “thời cơ chiến lược”, Kỷ yếu hội thảo Dự báo một số vấn đề về tình hình thế giới năm 2015 và những tác động đối với Việt Nam, Hà Nội, tháng 3/2015